Nguyễn Tuân (1910 – 1987) đã về với cõi người tài hoa
ngót nghét một phần ba thế
kỷ rồi, vậy mà bóng dáng của ông vẫn cứ lừng lững ôm trùm cả một khoảng rộng
dài mênh mông trên con đường văn chương hiện đại Việt Nam. Cái khoảng trống ấy
đến nay dường như chưa thấy ai có thể thay thế được. Có lẽ nó vang bóng mọi thời
chứ không chỉ “vang bóng một thời” như tựa đề tập truyện của ông đã đặt.
Nhiều
người cho rằng “Chữ người tử tù” là một tác phẩm: gần tới sự toàn thiện, toàn
mỹ (Vũ Ngọc Phan); là trong sáng lạ thường (Trương Chính); là nghệ thuật văn
xuôi điêu luyện (Nguyễn Đăng Mạnh); là truyện ngắn “cổ điển” trong lịch sử văn
học Việt Nam hiện đại (Văn Tâm); là đạt đến trình độ nghệ thuật bậc thầy (Hà Bình Trị);
là làm thơ trong văn xuôi (Ngô Ngọc Phú)... “Chữ người tử tù” không dài, chỉ trên dưới sáu
trang sách giáo khoa khổ 17x24cm, thế nhưng
người đọc “đào xới” mãi vẫn ẩn tàng nhiều điều cần nói, cần bàn và cần học. Thế mới hay rằng
cái giá trị của chữ nghĩa khi được một người chân tài sử dụng thì năng lượng của
nó dường như bất tận, không giới hạn. Một trong những nét giá trị làm nên văn
phẩm nổi tiếng này là nghệ thuật so sánh, đối lập, tương phản đến lạ kỳ nếu
không muốn nói tới sự đạt gần đến độ tận cùng của nó.
Cặp nhân vật Huấn Cao – viên quan coi ngục
là cặp nhân vật (hình tượng) chứa đựng chứa quan điểm thẩm mỹ sâu sắc
nhất của tác giả. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân dùng danh từ chung gọi
viên quan ngục mà không dùng danh từ riêng như dùng để đặt tên nhân vật Huấn
Cao. Ngay cách đặt tên nhân vật, người đọc đã thấy sự so sánh, đối lập, tương
phản. Một bên là
danh
từ riêng bên kia là danh từ chung. Một đằng viết hoa còn đằng kia viết thường.
Tâm ý của tác giả đã rõ: một trân trọng, nâng niu một tầm thường, giải đãi. Chỉ một cách
dùng từ loại thôi, đơn giản thế mà sao sâu sắc thế. Chỉ là cách đặt tên cho nhân vật
đã lóe lên dụng ý nghệ thuật, đã khiến người đọc phải nghĩ suy, đã bắt quan điểm, tư tưởng, nhận thức của bất cứ người đọc
nào cũng
phải
dứt khoát lựa chọn hoặc ngợi ca hoặc coi thường, tôn vinh hoặc khinh bỉ, trân quý hoặc rẻ rúng. Cái tài ở chỗ đó, nghệ thuật viết văn ở chỗ đó, người đọc học được
cũng ở đó mà ra.
Ta thấy, số lượng từ chữ miêu tả, kể trực
tiếp về hình tượng Huấn Cao rất ít. Còn về nhân vật
viên quan coi ngục thì gấp nhiều lần. Đây lại là một thủ pháp so sánh, đối lập nếu người
đọc vội vàng, sơ ý rất dễ bỏ qua. Không phải ngẫu nhiên như vậy. Hình
tượng Huấn Cao chủ yếu hiện lên sáng chói khí phách, tài hoa, lẫm liệt là do từ lời nói của chính viên quan coi ngục và nhân vật thầy
thơ lại. Thông thường, người viết sẽ dựng nhân vật một cách trực tiếp để người
đọc hình dung ra dáng hình, tính cách, lời nói, hành động... nhưng ở đây Nguyễn Tuân không làm
thế mà ngược lại ông cho nhân vật này chồng lấn, ẩn và thoát lên từ nhân vật kia. Có lẽ thế mà người đọc mới cảm thấy sửng
sốt, kinh ngạc về hình tượng Huấn Cao lồng lộng sáng ở phần cuối tác phẩm. Thủ
pháp này nhà phê bình Kim Thánh Thán gọi là “vẽ mây nẩy trăng”. Và chợt nhớ ra rằng trong
tác phẩm “Những trò lố hay Va-ren và Phan Bội Châu”, Nguyễn Ái Quốc cũng dùng
thủ pháp nghệ thuật này điêu luyện, khéo léo vô cùng. Từ đầu đến cuối truyện,
Phan Bội Châu dường như chỉ im lặng, chẳng nói gì, chỉ có nhân vật Va-ren nói và nói
liên tục, liên hồi, không ngớt từ đầu đến cuối. Còn trong “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân vẫn
còn dành cho Huấn Cao một tỉ lệ vừa phải để trực tiếp kể tả. Về mức độ đậm đặc, thì
Nguyễn Ái Quốc sử dụng đến tận cùng hơn Nguyễn Tuân. Nhưng cả hai ngòi bút tài năng
thiên bẩm này bắt cái “thần” của nhân vật sáng bừng, ôm trùm, xuyên suốt từ đầu đến cuối
thiên truyện.
“Chữ người tử tù” đem đến một khoái cảm thẩm
mỹ đến không cùng. Tác giả dựng lên
một đối sánh tương phản rất kỳ thú đó là: ánh sáng và bóng tối. Cái thế giới tối
tăm, tù ngục, kẻ độc ác, bất lương làm chủ, còn người “thiên lương, nhân tính,
tài năng, bị chèn ép gông cùm. Một đốm sáng Huấn Cao bị vây bủa cả một vùng tối
tăm, ẩm thấp, tù đọng. Nhưng cái đốm sáng vẫn hừng hực cháy, tưởng như thiêu
tàn cả cái không gian tù ngục luôn bốc mùi ai oán, ác nhân. Ngay từ đầu tác phẩm,
“ánh sáng Huấn Cao” đã khiến cho viên quan coi ngục và thầy
thơ lại phải kính nể: “cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?” và “ngoài cái tài viết chữ
tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt
ngục”; “thế ra y văn võ đều có tài cả”. “Cái ánh sáng Huấn Cao” ấy đã chinh phục được địch thủ: “phải chém những
người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc”. “Chữ tốt” ở đây là biểu tượng
văn hóa đẹp nhất của dân tộc. “Tài bẻ khóa và vượt ngục” là
cái tài tuyệt đỉnh. Hiểu như thế càng thấy cái đẹp có sức hút biết nhường nào,
cái tài có sức thuyết phục đến không giới hạn. Cái Đẹp, cái Tài ấy tụ lại ở một
cái Tâm sáng trong rờ rỡ cùng với phẩm
cách uy nghi, phi phàm của ông Huấn Cao thì Đẹp –Tài –Tâm dứt khoát phát ra một thứ ánh
sáng đặc biệt, đó là thứ ánh sáng “xưa nay chưa từng có”. Vì vậy, thứ ánh sáng ấy đã cảm hóa cả ngục tù tăm tối, ác nhân.
Quan
trọng
hơn nó khiến cho địch thủ phải ngưỡng mộ, kính nể và thay đổi cả bản chất của
mình. Thói thường, viên quan coi ngục là một tên ác quỷ, là tay sai đắc lực, là bản sao y nguyên bản chính của cái chế độ xã hội mà “người ta sống
bằng tàn nhẫn bằng lọc lừa”, ấy vậy mà viên quan coi ngục khi được giáp mặt với
“ánh sáng Huấn Cao” đã ngợp choáng và dần dần thay đổi, cuối cùng lột sạch hết những cái
“cặn bã” bấy lâu mà y chìm vào để ngoi đứng lên, vượt thoát khỏi kiếp tôi đòi hèn hạ, theo lời khuyên bảo của “ánh sáng Huấn
Cao”: “ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này
không phải
là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người... Tôi bảo thực đấy,
thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát
khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khéo giữ
thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc
mất cái đời lương thiện đi”. Cuối cùng
ánh sáng đã chiến thắng huy hoàng, bóng tối bị tan rữa, hủy hoại.
Nhưng đáng giá hơn bao giờ hết là cái “bóng tối”
ấy đã nhiễm hoàn toàn cái “thiên lương”của “ánh sáng Huấn Cao”: “Ngục quan cảm
động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ
miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Thật lạ lùng, chính ánh sáng Huấn Cao đã làm thay đổi, đảo lộn một
cách
ghê
gớm, không thể tưởng tượng nổi: kẻ tử tù giữa chốn lao ngục được chính chủ của nó kính trọng, vái lạy, người mang gông, đeo xiềng làm chủ còn
kẻ trước đây là chủ lại khúm núm, so ro, lo sợ. Mới chưa đầy hai
ngày mà kẻ nắm quyền sinh sát lại tôn quý kẻ tử tù, xin
chỉ dạy một cách cung kính, lễ phép. Vị trí, vai trò đã
thay đổi, ngược hẳn lại, tù nhân răn dạy, chỉ bảo cai ngục, cai ngục quỳ lạy tù
nhân. Thật là “xưa nay chưa từng có”. Trong ngục tù tăm tối cứ tưởng rằng cái ác, cái xấu, cái bẩn thỉu, nhơ nhớp thống trị làm
chủ, có ai ngờ rằng cái đẹp, cái cao cả, cái phi thường, sự thiên lương toàn
quyền làm chủ. Phải chăng “cái đẹp cứu vớt con người”.
Có thể nói rằng “Chữ người tử tù” của Nguyễn
Tuân điệp trùng thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối lập, tương phản.
Có đối sánh tương phản rộng, có đối sánh tương phản hẹp, có đối sánh tương phản
của hai đối tượng, lại có đối sánh tương phản trong một đối tượng. Ta hãy xem
nhân vật “viên quản ngục”. Ngay bản thân nhân vật này vẫn tồn tại sự đối lập
tương phản. Đã là quản ngục thì đó là ác quỷ hiện
hình, song trong tâm hồn của y khi gặp được ánh sáng lành thiện và văn võ song
toàn của Huấn Cao thì cái ác nhân trong con người hắn đã nhạt dần đi theo thời gian được gần cận với Huấn Cao. Từ tàn ác chuyển sang nhún nhường,
biết điều; từ cậy quyền thế, ra oai tác quái sang thành tâm sám hối; từ u ám tối tăm sang thanh nhẹ trong trẻo. Ta hãy đọc những đoạn văn sau đây sẽ thấy
rất rõ điều đó: “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa
lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người
ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bẩn đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ... Ông
trời nhiều khi chơi ác đem đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn
bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại
phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt” và “Ta muốn
biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốn cho ông ta đỡ cực trong những ngày còn
lại”; “hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền
lành. Lòng kiêng nể...” Một lần nữa, ta càng thấy công năng hiệu nghiệm, sức cảm
hóa của cái Đẹp-Tâm-Tài quyện tụ làm nên một sức mạnh không gì cản ngăn được. Sức
mạnh ấy cuốn phăng hết mọi u tối, xấu xa, thấp hèn, nhơ bẩn, ác độc, đem lại sự
sáng trong, thành tâm. Và bản thân đối tượng như được
hồi sinh với tràn đầy nhựa sống được chuyển lưu trong từng mạch máu, trong từng
nghĩ suy, nó làm thay đổi hẳn cả thế giới quan của đối tượng.
Quả thực, với nghệ thuật so sánh, đối lập, tương phản được
tác giả sử dụng điệp trùng, chồng lấn, trong ngoài, trên dưới, cao thấp một
cách khéo léo góp phần không
nhỏ trong việc thể hiện sâu sắc chủ đề của thiên truyện, đem lại một xung lực hấp
dẫn hiếm thấy cho người đọc. Và theo riêng tôi, đó là chỗ lý thú nhất, còn nhớ một
lần Nguyễn Tuân nói thế này: “Văn học có cái rất vui là phong cách. Cách nói,
cách viết khác nhau. Vậy mà nhiều anh viết văn, dạy văn lại không đi vào đấy,
chỉ nói về nội dung, về tư tưởng nên trở thành nhạt nhẽo, vô duyên. Tại anh
thôi, cái chỗ phong phú, cái chỗ “xôm” nhất, “vui” nhất anh “đếch” đi vào nên
người ta chán.” Ta cùng suy ngẫm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI