Từ rất sớm,
người xưa đã đề cập đến vấn đề “thi trung hữu họa”của thơ ca. Bởi so với các thể tài
khác, thơ mang tính tạo hình rất cao. Tính tạo hình vừa là đặc trưng vừa là yêu
cầu sáng tạo của thơ. Thơ Tế Hanh tiêu biểu cho điều này. Thơ ông giàu tính tạo hình, mỗi tác
phẩm như từng bức vẽ mà ở đó hình ảnh hiện lên hết sức sống động, gợi
cảm. Một trong những thủ pháp tạo hình mà Tế Hanh thường xuyên sử dụng là ấn tượng
thị giác. Điều này thể hiện rõ trong Quê hương, thi phẩm tiêu biểu cho phong
cách thơ ông, in trong tập Nghẹn ngào (1939), sau in lại trong tập Hoa niên
(1945).
Mở đầu bài
thơ, nhà thơ tự giới thiệu:
Làng tôi ở vốn
làm nghề chài lưới
Nước bao vây
cách biển nửa ngày sông.
Quê nhà của
Tế Hanh là “một hòn cù lao trên sông Trà Bồng trước khi đổ ra biển”. Tuổi thơ của tác giả chắc hẳn gắn
liền với những hình ảnh con thuyền, tấm lưới, những thanh âm của câu hát điệu
hò chèo ghe… Trong bài viết “Kỷ niệm về một điệu hò trên sông Trà Bồng”, nhà thơ thổ lộ: “Trước khi tôi vào đời để
làm thơ, tôi đã yêu thơ qua tiếng hát câu hò của những người đánh cá quê tôi” (Hồi
nhỏ các nhà
văn học văn, Nxb TP.Hồ Chí Minh). Không phải ngẫu nhiên mà Tế Hanh có những bài thơ rất hay về đề tài
quê hương, đồng thời được xem là một trong những thi sĩ thành công nhất ở mảng
đề tài này. Quê hương với cảnh sắc thanh bình, tươi đẹp
chính là mạch nguồn cảm hứng sáng tạo, đồng thời là kho chất liệu nghệ thuật quý giá
trong thơ ông.
Bức tranh
thiên nhiên và cuộc sống con người được thể hiện trong thơ Tế Hanh rất đỗi cụ thể, chân thực nhưng sinh động,
đầy thanh âm, sắc màu. Ở Quê hương, bức tranh ấy được thể hiện từ đầu tác phẩm.
Cả vùng trời tươi sáng hiện ra trước mắt người đọc chỉ với một dòng thơ: Khi trời
trong, gió nhẹ, sớm mai hồng. Thiên nhiên được thể hiện bằng những gam màu sáng
“trong”, “hồng”. Với gam màu này, đặc biệt là sắc “hồng” ở cuối dòng quy tụ sức
gợi của cả câu thơ, ngay lập tức đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với thị giác tiếp
nhận. Trước mắt người đọc như hiện lên cả một bầu trời trong veo với sắc ửng hồng
phía mặt trời ló dạng. Hình ảnh thiên nhiên nhờ đó trở nên thi vị hơn, đồng thời
gây được nhiều hiệu ứng thẩm mĩ hơn.
Khung cảnh
thiên nhiên không chỉ đẹp vì vẻ trong trẻo, lãng mạn vốn có mà còn bởi hình ảnh
con người với những hoạt động thường nhật. Tác giả chỉ dùng vài dòng thơ đầu để gợi tả cảnh sắc thiên
nhiên nhưng lại dùng đến gần như toàn bộ phần còn lại của tác phẩm để khắc họa
cuộc sống của con người vùng sông biển.
Chiếc thuyền
nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái
chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm
giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng
bao la thâu góp gió.
[…]
Những con cá
tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới
làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình
nồng thở vị xa xăm.
Nếu như
trong bức tranh thiên nhiên tác giả sử dụng từ chỉ màu sắc thuộc gam màu sáng thì với bức trang làng quê
miền biển trong lao động, tác giả khắc họa với sự hòa hợp giữa
cả hai gam màu sáng và tối. Gam sáng là màu trắng của “cánh buồm”, của “những
con cá tươi ngon”. Màu trắng với cường độ mạnh đã gây kích thích trực tiếp thị
giác người đọc. Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió đưa thuyền “vượt trường
giang”, những con cá thân bạc trắng tươi rói trên những chuyến thuyền đầy ắp trở
về chắc chắn để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc về cuộc sống
lao động đặc thù miền biển. Đây cũng là gam màu ám ảnh hồn thơ Tế Hanh. Vì mãi
đến sau này, dù đi đến đâu, những hình ảnh ấy cứ luôn thường
trực trong tâm trí nhà thơ: Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ/ Màu nước xanh, cá bạc,
chiếc buồm vôi.
Trên phông nền
tươi sáng ấy, nổi bật lên là hình ảnh của con người lao động. Nhà thơ dùng gam màu tối để khắc họa hình
ảnh người dân chài lười quê mình. Đó là các màu “ngăm”, “rám” của nước da
người miền biển. Sau Cách mạng, trong bài Tiếng sóng, Tế Hanh cũng sử dụng lại gam màu này để miêu tả người dân chài lưới quê
mình:
Da ngăm ngăm
như một làn nước mặn
Miệng cười
vui mặt biển ánh trăng nghiêng
Có chàng
trai vai ngang như bến rộng
Có cô gái
mày thanh như làn nước ven sông
Không phải
ngẫu nhiên mà khi đặc tả hình ảnh con người miền biển, nhà thơ lại chọn chi tiết màu da. Có lẽ nước da
rám màu nắng gió biển khơi và mặn mòi chất muối là một đặc
trưng của người miền sông biển. Gam màu tối không gợi buồn mà ngược lại, đã làm
nổi bật lên sự săn chắc, khỏe khoắn, can trường. Hình ảnh con người lao động hiện
lên một cách chân thực, sống động hơn. Cũng như màu trắng, màu ngăm với cường
độ mạnh đã gây nên ấn tượng thị giác mạnh, từ đó tăng cường hiệu ứng khắc họa
hình tượng. Hơn nữa, hai gam màu sáng - tối được thể hiện một cách hợp lí đã
triệt tiêu tính tương phản, gia tăng hiệu ứng bổ sung. Bức tranh thiên nhiên và
con người nhờ đó trở nên thật hài hòa, sinh động.
Miêu tả
phương tiện lao động là những chiếc thuyền ra khơi đánh cá, cùng với trường từ vựng chỉ màu sắc, nhà thơ còn
sử dụng trường từ chỉ kích thước: “to”, “bao la”. Đi kèm với chúng là những
tính từ, động từ mạnh: “hăng”, “phăng” “giương”, “rướn”. Tác giả còn sử dụng biện
pháp so sánh, trong đó, đối tượng để so sánh là những hình ảnh hết sức độc
đáo: “con tuấn mã”, “mảnh hồn làng”. Nếu “con tuấn mã” là biểu tượng của sức mạnh
và vẻ đẹp kiêu hãnh thì “mảnh hồn làng” lại là hình ảnh thiêng liêng biểu trưng
cho hồn cốt, truyền thống văn hóa của quê hương. Hình ảnh so sánh cùng từ ngữ ấn tượng
đã gây nên những ấn tượng thị giác đặc biệt. Hình tượng cánh buồm, con thuyền
vì thế cũng trở nên nổi bật, để lại nhiều ấn tượng
sâu sắc trong sự liên tưởng, cảm nhận của độc giả.
Bên cạnh sử
dụng trường từ vựng chỉ màu sắc, kích thước, biện pháp tu từ so sánh, tác giả còn sử dụng biện pháp ẩn
dụ chuyển đổi cảm giác. Nói về thành quả lao động của dân
chài lưới quê mình, nhà thơ viết: Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe/ Những con cá
tươi ngon thân bạc trắng. Ở đây, “ngon” đã được chuyển đổi cảm giác từ
vị giác (ngon miệng) sang thị giác (ngon mắt). Ấn tượng thị giác nhờ thế được
gia tăng. Ta còn nhớ, trước Tế Hanh hàng trăm năm, thi hào Nguyễn Gia Thiều cũng từng
dùng biện pháp này khi tả người cung nữ qua cái nhìn của đấng quân
vương: Đóa lê ngon mắt cửu trùng/ Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu
(Cung oán ngâm khúc). Nếu “ngon” trong thơ cụ Nguyễn đã chuyển sang cả cảm
xúc nhục thể thì “ngon” của Tế Hanh chỉ dừng lại ở xúc cảm thị giác. Cả hai chữ
“ngon” đều là nhãn tự, được dùng hết sức tài tình. Trong câu thơ của Tế Hanh, cùng
với “tươi”, “ngon” đã thể hiện được tối đa độ tươi, độ ngon của cá được đánh
bắt về. Đó cũng là cách thể hiện ấn tượng về thành quả lao động biển cả của dân
chài lưới quê hương nhà thơ.
Có thể nói,
Quê hương là một đỉnh cao của thơ Tế Hanh. Bài thơ tràn ngập sắc màu và nhộn nhịp hình ảnh con người.
Bằng ngôn ngữ của sắc màu, đường nét, hình khối và so
sánh, nhân hóa, ẩn dụ có tác dụng gây liên tưởng thị giác, tác giả đã đem đến
cho người đọc những ấn tượng khó quên về bức tranh thiên nhiên và đời sống lao
động của con người miền sông biển. Với Quê hương, Tế Hanh đã góp vào gia tài
thơ Việt Nam hiện đại một bài thơ hay, độc đáo, giàu hình ảnh về đề tài quê
hương nói chung, miền sông biển nói riêng.
Hay quá em nha!
Trả lờiXóahay đó e
Trả lờiXóa