Dân
tộc Êđê là một trong những dân tộc bản địa, định cư từ lâu đời trên cao nguyên Đắk
Lắk. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu văn hóa truyền thống của dân tộc Êđê,
chúng tôi nhận thấy văn hóa mẫu hệ Êđê được hình thành từ bao đời nay, thông
qua lịch sử đấu tranh, chinh phục thiên nhiên, xây dựïng và phát triển cộng đồng.
Nó đã trở thành biểu tượng độc đáo của văn hóa
Êđê.
Theo nhà văn hóa học V.M. Rodin (giáo trình Đại học
Mát-xcơ-va, 1998): “Biểu tượng là một hình thái ngôn ngữ - ký hiệu tượng trưng
của văn hóa. Nó được sáng tạo nhờ
vào năng lực “tượng trưng hóa” của con người, theo phương thức dùng hình ảnh
này để bày tỏ ý nghĩa kia, nhằm để nhận thức và khám phá ra một giá trị biểu tượng
nào đó. Biểu tượng được xem là “tế bào” của văn hóa và là hạt nhân “di truyền xã hội” đầu tiên của nhân loại. Nó quy định mọi hành vi ứng
xử và giao
tiếp
của con người đồng thời liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt”.
Từ định nghĩa trên, chúng tôi thấy văn hóa mẫu hệ Êđê, có
những biểu tượng tiêu biểu như
sau:
- Về tên gọi buôn làng: Người Êđê thường lấy
tên người phụ nữ (đứng đầu dòng họ) để đặt tên cho buôn
làng mình, như buôn H’Ling, H’Năng, H’Leo, H’Tring, H’Măng... Đó là những người phụ nữ có công tìm ra bến nước, hoặc để lại dấu ấn
trong lịch sử hình thành các địa danh trên cao nguyên Đắk Lắk, như buôn H’Năng, buôn Tring, buôn
M’Liêng, suối Ea H’Leo, thác Drai H’Ling…
- Về tên chủ bến nước: Người Êđê thường lấy
tên người phụ nữ tìm ra bến nước để tôn
vinh và đặt tên chủ bến nước. Theo luật tục cộng đồng, chủ bến nước (Pô pin ea)
đồng thời là chủ buôn làng và chủ đất. Chủ bến nước cùng với hội đồng già làng
đề ra luật tục để quản lý cộng đồng. Khi về già, chủ bến nước qua đời thì chức
danh đó được giao lại cho cô con gái út, cứ thế vai trò chủ bến nước được thừa
kế trong một gia đình mẫu hệ (mà bà Tổ là người có công tìm ra bến nước), chứ
không giao quyền cho một gia đình hoặc dòng họ nào khác.
- Về nhà ở: Người Êđê có ngôi nhà sàn dài
“dài như một tiếng chiêng ngân” (như trong
sử thi Đam San đã từng mô tả). Kiến trúc ngôi nhà giống như một chiếc thuyền khổng
lồ (trên rộng, dưới hẹp), là nơi cư ngụ của các thế hệ trong một đại gia đình,
do một người phụ nữ cai quản. Trước hiên nhà dài được tạc hai cái nồi đồng bằng
gỗ to tròn, đặt hai bên cửa ra vào. Nồi có thân và cổ vươn cao đầy dặn, tượng
trưng cho sự no đủ của gia đình mẫu hệ. Trước hiên có cầu thang lên xuống gồm bảy
bậc (số bảy là số may mắn của gia đình mẫu hệ), phía đầu cầu thang (nơi tiếp
giáp với sàn hiên) được tạc hình mặt trăng non và hai bầu vú căng tròn. Nó biểu
hiện cho vẻ đẹp và uy quyền của người phụ nữ trong gia đình mẫu hệ.
- Về hôn nhân: Theo phong tục của người
Êđê, khi trong nhà có người con gái đến tuổi
lấy chồng, thì cha mẹ lo việc hỏi chồng, cưới chồng cho con mình. Sau lễ cưới, chàng
rể về ở nhà vợ. Con cái sinh ra lấy họ mẹ. Trong quá trình sinh sống, nếu người vợ không
may qua đời, thì nhà gái thực hiện tục nối dòng (chuê nuê) đưa em gái thay chị làm vợ
anh rể mình. Nếu không còn em gái thì thay vào đó là cháu gái. Đây là một phong
tục cổ truyền, khá khắc nghiệt nhằm gìn giữ sự tồn tại và phát triển của
gia đình mẫu hệ.
- Về việc đặt tên cho trẻ sơ sinh: Theo phong tục của người
Êđê: khi đứa bé sinh ra được
bảy ngày, thì cha mẹ làm lễ đặt tên cho con. Trong lễ này, bên cạnh việc đặt tên, bà đỡ bế em bé
làm lễ thổi tai cho bé, với mong ước đứa bé lớn lên sẽ có đôi tai nghe thấu bảy núi mười sông, phân biệt được điều hay lẽ phải. Cũng
tại lễ này, ông cậu mang quà tặng cho cháu bé gồm một bộ áo váy, và đồ trang sức
(nếu là nữ), hoặc một bộ khố áo (nếu là trai) và kèm theo các đồ dùng khác,
như: một đôi dép bằng da trâu, một bầu đựng nước, bát đũa, khăn, mền… các thứ
này được giao cho người mẹ cất giữ trong một cái gùi có nắp đậy, cho đến khi đứa
bé tròn 16 mùa rẫy mới đem ra cho nó mặc để cúng thần linh trong lễ trưởng
thành.
- Về canh tác rẫy nương: Theo tục lệ của
ông bà, người Êđê thường dành vài sào đất rẫy
để trồng lúa nếp hoặc lúa tẻ, với mục đích dùng gạo này vào việc lễ cúng thần
linh. Rẫy này gọi là rẫy thiêng, ngoài chủ nhà, thì không một ai được vào. Nó do chủ nhà là người phụ
nữ, tự mình gieo trồng chăm sóc cho đến khi thu hoạch đưa lúa về nhà.
- Về việc làm trống: Người Êđê làm trống
dùng để đánh trong các nghi lễ-lễ hội của cộng
đồng. Họ gọi trống là H’gơr. Trống tượng trưng cho người bà trong gia đình. Tang trống là một
thân gỗ tròn được khoét rỗng. Hai mặt trống gồm một mặt đực, một mặt cái. Mặt cái
được bịt bằng da con trâu cái. Mặt đực được bịt bằng da con trâu đực. Mặt đực
chỉ dùng đánh báo khi trong nhà có người qua đời. Mặt cái được dùng đánh trong các nghi lễ-lễ hội và trong sinh hoạt cộng đồng kết
hợp với bộ chiêng K’nah.
- Về bộ cồng chiêng: Cồng chiêng là tài sản
lớn nhất của mỗi gia đình người Êđê. Xưa
kia mỗi bộ chiêng được đổi từ 1 đến 2 con voi, hoặc cả một đàn trâu bò khoảng 100 con.
Theo quan niệm của người Êđê: Cồng chiêng không được đánh bừa bãi, mà chỉ được dùng để thông tin với các thần linh của trời đất trong
các lễ cúng lớn. Cồng chiêng của người Êđê mang đậm tính mẫu
hệ. Mỗi bộ cồng chiêng có 10 cái và 1 trống.
Mỗi cái chiêng tương ứng với một thành viên trong gia đình mẫu hệ. Đầu tiên là
trống H’gơr tương ứng cho người bà; tiếp đến là chiêng Char (ông); chiêng Ana
(mẹ); chiêng M’duh (cha), chiêng Moong (cậu); chiêng K’ana Di (con gái lớn);
chiêng H’liang (con gái thứ hai); chiêng Khơk (con trai lớn); chiêng H’luê Khơk
(con trai thứ hai); chiêng H’luê H’liang(con gái thứ ba); chiêng H’luê Khơk Điêt
(contrai út). Mỗi khi diễn tấu, trống H’gơr ra hiệu lệnh thì cả dàn chiêng mới
vào nhịp. Trước khi kết thúc một bài chiêng, trống H’gơr ra hiệu lệnh dừng thì cả dàn chiêng mới được dừng đánh.
- Về nghi thức uống rượu: Trong mỗi lễ cúng
thần linh của người Êđê, sau khi thầy cúng
đọc lời khấn thần linh xong, chủ nhà (người bà, hoặc mẹ) được mời uống rượu giao
cảm với thần linh trước, tiếp đến là người chồng và ông cậu. Sau nghi thức uống
rượu giao cảm, chủ nhà mời mọi người cùng uống rượu (nữ uống trước, nam uống
sau). Có những lễ cúng lớn với khoảng từ 12 đến 15 ché rượu, người ta trao cần
rượu cho nhau (gọi là M’năm ring) nối tiếp thành một hàng dài (nữ trước nam
sau). Mọi người cùng nhau uống rượu cần vui vẻ trong âm thanh trầm bổng của âm
nhạc cồng chiêng.
Bên cạnh đó, biểu tượng văn hóa mẫu hệ Êđê còn được phản
ánh trong trang phục, ẩm thực, sử thi, truyện cổ, lời nói vần, trong nhạc cụ
tre nứa, trong dân ca, dân vũ… Nói chung ở lĩnh vực
nào, biểu tượng văn hóa mẫu hệ cũng được đề cao và được
cộng đồng tôn trọng, coi đây là một tập tục truyền thống, thể hiện bản sắc và sức
sống kỳ diệu của cộng đồng Êđê trên núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI