"THIÊN TRƯỜNG VÃN VỌNG"
SỰ GIAO DUYÊN GIỮA THƠ VÀ THIỀN
Đến với thơ Trần Nhân
Tông là đến với sự hoà điệu giao duyên giữa thơ và Thiền, "dĩ thi ngụ
thiền, dĩ Thiền thuyết thi", một hồn thơ hồn hậu đầy cảm xúc trước thiên
nhiên tạo vật. Tất cả những vẽ đẹp của ngoại giới trong thơ Trần Nhân Tông đều
có sự tương thông với tâm Thiền nên thấm đẫm Thiền vị. Thiên Trường vãn vọng
là một trong những bài thơ tiêu biểu cho đặc điểm này của thơ Trần Nhân Tông.
Phiên âm
Thôn hậu thôn tiền đạm
tự yên,
Bán vô bán hữu tịch
dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu
quy tận,
Bạch lộ song song
phi hạ điền.
Dịch nghĩa
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói
phủ
Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa có nửa
như không
Trong tiếng sáo, mục đồng dẫn trâu về
hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn
tựa khói lồng
Bóng chiều man mác
có dường không
Mục đồng sáo vẳng
trâu về hết
Cò trắng từng đôi
liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch)
Câu thơ mở đầu với
cấu trúc đối ngữ đoạn ấn tượng đã khắc hoạ một không gian toàn cảnh:
Thôn hậu ><
thôn tiền/đạm tự yên
Với sự tương tác của
hai từ trái nghĩa "tiền" – "hậu" trong cấu trúc đối đã
tạo ra hiệu quả nghệ thuật: Tạo dựng không gian có sự mở rộng biên độ về hai phía,
một bức tranh đồng quê rộng lớn. Bức tranh này lại được quan sát từ khoảng cách
xa nên có độ "nhoè", nhoà nhạt như khói phủ. Phải chăng lúc này sương
đã xuống nhiều nên cảnh vật "đạm tự yên". Câu thơ khéo ở thủ
pháp gợi, không nói tới sương chiều mà người đọc vẫn cảm nhận được sương chiều đang
dần phủ kín không gian. Sự liên tưởng này của người đọc có căn cứ hơn khi tác
giả tiếp tục khắc hoạ:
Bán vô bán hữu tịch
dương biên
Câu thơ tiếp tục sử
dụng thủ pháp đối trong ngữ đoạn với hai yếu tố đối lập "vô"
– "hữu". Với sự cộng hưởng của ánh chiều, bức tranh đồng quê đã
trở nên mờ ảo hơn. Câu thơ dịch của Ngô Tất Tố vô tình đã là sai lệch đối tượng
chính được miêu tả "Bóng chiều man mác có dường không". Theo câu
thơ dịch thì bóng chiều là đối tượng thẩm mĩ chính yếu trong câu thơ. Thế nhưng
xét kĩ ta thấy nguyên nghĩa của câu thơ là: Bên bóng chiều (cảnh vật) nửa như có
nửa như không. Bóng chiều, với sự trợ nghĩa của từ "biên": bên,
chỉ đóng vai trò là yếu tố không gian góp phần làm bật nổi bức tranh đồng quê.
Do vậy tính chất "bán vô" – "bán hữu" là tính chất của
cảnh vật (đã bị tỉnh lược) chứ không phải là tính chất của bóng chiều. Câu thơ
chứa hai yếu tố "hữu – vô", hai khái niệm cơ bản của Thiền học.
Khi giải thích bản thể của vũ trụ, Lão Tử đã
sáng tạo ra cặp phạm trù Hữu - Vô và nó đã trở thành cặp phạm trù
cơ bản nhất của lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại: "Thiên hạ vạn vật
sinh ư hữu, hữu sinh ư vô" (vạn
vật trong thiên hạ đều sinh ra từ hữu, hữu sinh ra từ vô).
Như vậy cảnh vật ở đây như không tồn tại "vô" (bởi sự che phủ của sương
chiều) nhưng thực chất cảnh vật vẫn đang tồn tại "hữu". Trong cái
"vô" có cái "hữu"; trong cái "hữu" lại có cái
"vô". Điều này làm ta nhớ đến bài thơ của Đạo Hạnh, bài Hữu không:
Tác hữu trần
sa hữu
Vi không nhất
thiết không
Hữu không
như thuỷ nguyệt
Vật trước hữu
không không
(Bảo là có thì hạt cát mảy bụi đều có – Cho là không thì
hết thảy là không – Có và không như là ánh trăng dưới nước – Đừng bám vào cái có
cũng đừng cho cái không là không).
Lẽ "hữu - vô" của tạo hoá luôn huyền diệu! Cảnh
vật được nhìn qua cảm quan của Thiền nhân nên thấm đẫm Thiền vị.
Từ viễn cảnh, thi nhân lại quay về với những đường nét ở
cận cảnh:
Mục đồng địch lí ngưu
quy tận,
Bạch lộ
song song phi hạ điền.
Với câu chuyển, SGK
Ngữ văn 7 dịch nghĩa : "Trong tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về hết".
Thiết nghĩ dịch như thế là chưa thể làm rõ được ý nghĩa của câu thơ. Ta thử xét
cấu trúc trong câu thơ nguyên tác:
Mục đồng địch lí/ngưu/quy
tận
(Trạng ngữ) (Chủ ngữ) (Vị ngữ)
Thế nên câu thơ trên có thể dịch thành
"Trong tiếng sáo của trẻ chăn trâu, trâu đã về hết".
Như vậy trong bức
tranh đồng quê rộng lớn đã xuất hiện điểm nhấn, hình ảnh đàn trâu và mục đồng
thổi sáo. Cái tinh diệu của câu thơ ở chỗ, nếu như xem câu thơ này là kết quả của
những sáng tạo dựa trên cơ sở hình ảnh hiện thực thì đây sẽ là những nét vẽ hết
sức tinh tế về cảnh sắc thôn quê bình dị với đàn trâu thong thả về chuồng trong
điệu sáo dặt dìu thấm đẫm tình quê của những đứa trẻ chăn trâu hồn nhiên. Nhưng
nếu như tiếp cận câu thơ trong mối tương quan với cảm hứng Thiền thì câu thơ lại
mang một ý vị khác. Hình ảnh con trâu trong thơ Thiền gắn liền với một điển cố
trong Thiền học. Theo Truyền đăng lục: Một hôm Động Sơn hỏi hoà
thượng Long Sơn rằng: "Hoà thượng thấy đạo lí gì mà trụ trì ở đây?"
Long Sơn đáp "Ta chỉ thấy hai con trâu bùn đánh nhau rồi chạy xuống bể.
Từ bấy đến nay vẫn không thấy tin tức gì". Điển cố này dùng ngụ ý con
người cũng như vạn vật đều có cái Chân tâm nhưng vì mê lầm nên nhiều người đã đánh
mất nó, mãi không tìm lại được. Quay lại với với câu thơ ta thấy, nếu như tiếng
sáo của mục đồng biểu trưng cho cái tâm hồn nhiên bình lặng, trong sáng không bị
vẩn đục bởi những mê kiến, vọng kiến thì hình ảnh đàn trâu quay về (ngưu quy
tận) chẳng phải chính là nẻo về của Chân tâm đó sao ?
Câu thơ cuối, với hình
ảnh từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng, thi nhân đã hoàn thành bức tranh của đồng
quê tuyệt đẹp của mình. Nếu như ta đã bắt gặp những cánh cò trong thi văn cổ điển
Trung Quốc chúng thường bay thật cao lên trời xanh:
Nhất hàng bạch lộ
thướng thiên thanh
(Một hàng cò trắng bay vút lên trời xanh)
Lạc hà dữ cô lộ tề
phi
Thu thủy cộng trường
thiên nhất sắc
(Cánh cò
bay cùng với ráng chiều – nước mùa thu và nền trời cùng một màu).
Nhưng ở đây cánh cò
của Trần Nhân Tông lại bay hẳn xuống cánh đồng của quê hương "phi hạ điền".
Để có được chữ "hạ" ấy, cánh cò của Trần Nhân Tông ắt hẳn phải
thiết tha với ruộng đồng lắm, nặng nghĩa tình đời lắm? Một ông vua mà lại có cái
nhìn như thế thật đáng quý biết bao nhưng cũng thật hiếm hoi biết bao!
Có thể nói bài thơ đã tạo dựng bức tranh thấm đẫm tình đời,
tình người bằng nhãn quan của thi nhân, Thiền nhân Trần Nhân Tông với tâm hồn
khát khao hoà nhập vào thiên nhiên, vào cuộc sống. Đồng thời thi nhân đã gửi gắm
vào đó những chiêm nghiệm về lẽ vô thường của con người trước cái hằng thường của
vũ trụ. Đó là chẳng phải là cái nhìn mang cảm hứng Thiền, tâm trạng Thiền, ý vị
Thiền nhưng cũng thấm đẫm chất thế sự với những cung bậc tình cảm hết sức phong
phú của con người đời thường đó sao?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI