ĐẶC ĐIỂM CỦA TIỂU THUYẾT MỚI
Tiểu thuyết mới là một trào lưu văn học xuất hiện vào đầu
những năm 1950, ở Pháp với các nhà văn trẻ như: Michel Butor, Claud Simon,
Jacque Derrida, đặc biệt là Alain Robbe Grillet. Khi nghiên cứu về tiểu thuyết
mới, mặc dù khẳng định rằng: “Những văn bản này không nhằm tạo dựng cho một lý
thuyết về tiểu thuyết, chúng chỉ thử lẩy ra vài nét về sự vận động mà tôi cho là
quan trọng trong văn học đương đại” nhưng Alain Robbe Grillet đã phát hiện ra rằng:
sáng tác của các nhà tiểu thuyết mới đầy mâu thuẫn và nghịch lý, lề thói,
khuôn thước bị phá bỏ. Nó bỏ qua ý nghĩa của thực tại để tìm ra những ý nghĩa
riêng biệt của chính nó. Không cần biên giới của sự thể, không đắn đo về nội
dung diễn tả, không cần đến quá khứ, thực tại, đạo đức, thời gian, không gian…
chỉ chú trọng đem lại cho người đọc những diễn biến. “Nhân vật tiểu thuyết bị hạ
xuống độ không: thường thì nhân vật không có tên (có thể đó là một “tôi” vô
danh, có thể là một chữ cái đầu), không có quá khứ, không có gia đình: tóm lại
là không có bản sắc, không thể tra cứu lịch sử cũng như địa lý, không hiện thực.
Sự có mặt của nhân vật biện minh bởi nhu cầu duy nhất về ngôn ngữ”. Không có giới
hạn giữa người viết và người đọc mà điều cốt yếu là tạo nên một không gian khách
quan để ẩn mình vào trong không gian nội tại. Đó là sự thức tỉnh nội giới biến
cái nhìn sự vật như đã được nội tâm hóa nhằm dễ khám phá ý nghĩa cuộc sống. Tiểu
thuyết mới mô tả ngoại vật có sự hiện diện của con người nằm trong không gian ấy,
nó từ chối nhân vật. Nội dung của tiểu thuyết mới không cầu kỳ, phức tạp mà cực
kỳ đơn giản, không gọt dũa, ít diễn tả, nhân vật nghèo nàn nhường chỗ cho sự nổi
bật hẳn lên của sự vật. Nó còn cố tình tẩy trắng hoàn toàn những ý nghĩa mà con
người gán cho sự vật trước đó…
Hành trình kiếm tìm sáng tạo:
Ra đời vào những năm 1950, trào lưu tiểu thuyết mới đánh
dấu khát vọng tìm tòi đổi mới, đồng thời thể hiện những phản ứng chống lại tiểu
thuyết truyền thống. Theo Alain Robbe Grillet thì “cái làm nên sức mạnh cho tiểu
thuyết gia chính là ở chỗ anh ta sáng tạo, anh ta hoàn toàn tự do sáng tác, không
có mô hình mẫu. Truyện hiện đại có điều đáng lưu ý sau đây: nó khẳng định có cân
nhắc đặc tính này đến mức sự sáng tạo, sự tưởng tượng cuối cùng trở thành chủ đề
của cuốn sách”. Mọi vấn đề lý luận đã được hình thành từ tiểu thuyết truyền thống
bị phá bỏ, bị đảo lộn một cách triệt để. Nhiều nhà lý luận đương thời cho rằng đó
là sự phá hoại, ngớ ngẩn, nực cười… “May thay nhiều người viết tiểu thuyết hiểu
rằng trong văn học cũng vậy, rằng văn học cũng sinh động và rằng tiểu thuyết từ
khi ra đời đã luôn luôn mới. Làm sao mà việc viết tiểu thuyết lại có thể đứng
im, đông cứng khi tất cả đều phát triển xung quanh nó – thậm chí còn quá nhanh
trong thời gian một trăm năm mươi năm qua”.
Ngay từ khi có ý định cầm bút thì đồng thời trong đầu các
nhà tiểu thuyết mới đã bị thôi thúc cao độ bởi nhu cầu tìm kiếm và sáng tạo cho
tác phẩm của mình. Thành công đầu tiên và quan trọng nhất phải kể đến là nó đã
không quy tắc hóa cho bất cứ luật lệ nào. Điều này khiến cho ý nghĩa của nó vượt
ra khỏi một trường phái văn học theo nghĩa hẹp của từ. “Người ta thường nói với
chúng tôi; các ngài không xây dựng nhân vật, vậy các ngài không viết được những
tiểu thuyết thực sự, các ngài không kể một câu chuyện, vậy các ngài không viết được
những tiểu thuyết thực sự, các ngài không nghiên cứu một tính cách, một hoàn cảnh,
các ngài không phân tích những mối tình, vậy các ngài không viết được những tiểu
thuyết thực sự”… Nhưng “người ta” không biết rằng đó chính là những tìm tòi, sáng
tạo làm nên bản chất và sự khác biệt của trào lưu văn học này. “Nói tóm lại, tiểu
thuyết mới là một sự đi tìm kiếm đầy sáng tạo chứ không phải là một lý thuyết với
những định luật câu chấp”.
Tiếp nối sự phát triển ổn định của thể loại tiểu thuyết:
Trước khi các tiểu luận phê bình tiểu thuyết mới của
Emile Henriot và Alain Robbe Grillet ra đời, người ta vẫn nghĩ rằng; những nguyên
tắc sáng tạo và các yếu tố nội tại của tiểu thuyết thực sự đã cố định vĩnh viễn
nhưng khi tiểu thuyết mới ra đời, nó đã phá bỏ không thương tiếc những khuôn mẫu
và hoàn toàn đoạn tuyệt với tiểu thuyết truyền thống. “Đây, hãy xem hiến chương
của tiểu thuyết mới theo như dư luận công chúng lan truyền: 1) Tiểu thuyết mới đã
quy tắc hóa những luật lệ của tiểu thuyết tương lai. 2) Tiểu thuyết mới đã rũ sạch
quá khứ. 3) Tiểu thuyết mới muốn xua đuổi con người khỏi vũ trụ. 4) Tiểu thuyết
mới nhằm vào một tính khách quan tuyệt đối. 5) Tiểu thuyết mới rất khó đọc, chỉ
dành cho các chuyên gia”.
Đây là những nhận định mang tính chủ quan, chỉ căn cứ vào
biểu hiện của hiện tượng. Người ta chưa quen, chưa thể bình tâm mà nhìn nhận một
cách khách quan và toàn diện để nhận ra bản chất của một trào lưu văn học còn
quá mới mẻ và có vẻ phá phách, nổi loạn này… Khi đã bình tâm lại, và nhờ vào kết
quả nghiên cứu của các nhà lý luận tiểu thuyết mới, người ta mới nhìn xoáy sâu
vào bản chất của hiện tượng và chợt nhận ra rằng: các tác giả “Flaubert,
Dostoievsky, Proust, Kafka, Joyce, Faulkner, Beckett… không hề vứt bỏ quá khứ mà
chỉ qua tên của các bậc tiền bối là chúng ta đã đồng ý một cách dễ dàng nhất và
tham vọng của chúng ta chỉ là tiếp tục họ”. Nếu quan tâm đến trào lưu tiểu thuyết
mới, hẳn người ta nhận ra ngay rằng nó đã thành công trong việc làm cho người ta
tin tưởng một cách tuyệt đối rằng thành tựu lớn nhất của nó là làm cho công chúng
ý thức về sự phát triển chung của thể loại tiểu thuyết. “Tiểu thuyết mới chỉ có
bổn phận kế vị. Nhà văn mới vẫn công nhận có những bậc thầy về tiểu thuyết từ
Stendhal, Balzac… đến Praust, rồi Kafka, Faulkner, Beckett… nhưng không phải chỉ
việc chép lại, suy tôn lớp người trước, mà phải tiếp tục làm công việc của họ, đồng
thời thích ứng vào hoàn cảnh, môi trường mới”.
Đặc biệt quan tâm đến con người và tình trạng của con người
trong cuộc đời:
Nó được đặc trưng bởi sự si mê miêu tả sự vật một cách
chi tiết, tỉ mỉ đến mức mà tất cả những sự miêu tả ấy dưới bất kỳ hình thức nào
nó cũng không còn đúng với một hiện thực ngẫu nhiên nào mà con người có thể nhận
thức được. “Đồ vật và con người giống như bóng với hình. Đó là điều cần phải nhớ
khi đọc tiểu thuyết mới. Như thế là công nhận tính cách bất khả phân ly giữa vật
và người”. Điều này hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa miêu tả hiện thực nhằm xóa
bỏ những ý nghĩa, tính chất mà con người đã gán ghép cho sự vật. Rõ là tiểu
thuyết mới không có nhân vật theo nghĩa truyền thống của từ nhưng không có nghĩa
là nó “muốn xua đuổi con người khỏi vũ trụ” vì “con người hiện diện trong đó ở
mỗi trang, mỗi dòng và mỗi từ. Ngay cả người ta chỉ thấy ở đó nhiều đồ vật, được
miêu tả chi tiết thì luôn luôn và đầu tiên bao giờ cũng có cái nhìn chúng, có tư
tưởng gặp lại chúng”… “Những đồ vật trong tiểu thuyết của chúng tôi không bao
giờ hiện diện ngoài những nhận thức của con người”.
Tiểu thuyết mới rất quan tâm đến con người nhưng không phải
dưới cái nhìn trực diện mà thông qua một hệ thống sự vật với những bản chất khởi
nguyên, tinh khôi của chúng. Ẩn sau những ngổn ngang đồ vật “ngôi nhà, động sản,
quần áo, đồ nữ trang, công cụ, máy móc”… “Tiểu thuyết mới vẫn để ý đến tâm lý của
nhân vật nhưng một tâm lý mới mẻ hơn, nhà văn ngày nay không còn chấp nhận cái
tâm lý hòa hoãn, giản dị, một phần nào giả tạo trong tiểu thuyết. Tiểu thuyết mới
đang đi đến tâm lý tế nhị, tế nhị đến nỗi có khi chối bỏ tất cả, làm lại tất cả
bắt đầu từ khởi điểm, đến một lúc nào đó tâm lý lại trở thành phi tâm lý”. Rõ ràng,
tiểu thuyết mới đặc biệt quan tâm đến bản chất của con người và tình trạng của
con người trong cuộc đời.
Luôn nhằm vào tính chủ quan hoàn toàn:
Thế giới trong những tác phẩm của trào lưu tiểu thuyết này
chủ yếu là các đồ vật nên lại thêm một lần nữa người ta nhầm tưởng rằng nó chỉ
nhằm vào thế giới khách quan, say mê khám phá thế giới khách quan mà hoàn toàn
quên đi tính chủ quan. Alain Robbe Grillet đã thay mặt cho tất cả các nhà tiểu
thuyết mới chứng minh một cách rõ ràng và đầy thuyết phục rằng tác phẩm của họ đầy
ắp tính chủ quan. “Ví dụ như trong các tiểu thuyết của tôi, không phải chỉ một
người miêu tả tất cả các sự vật, mà là người ít trung tính nhất, ít vô tư nhất
trong số những con người: ngược lại đó là người luôn luôn được nhập cuộc vào
trong một phiêu lưu đam mê trong số những phiêu lưu hấp dẫn nhất, đến mức thường
xuyên làm lệch lạc cách nhìn của anh ta và tạo ra trong anh ta những tưởng tượng
gần với mê sảng. Như vậy, cũng dễ chỉ ra rằng những tiểu thuyết của tôi – cũng
như của tất cả các bạn tôi – còn mang tính chủ quan hơn cả tiểu thuyết của
Balzac”.
Để thực sự thuyết phục một cách tuyệt đối đông đảo công
chúng, ông tiếp tục khẳng định: “Chỉ có trời là người duy nhất dám coi mình là
khách quan. Trong khi trong sách của chúng ta, ngược lại là một con người nhìn,
cảm giác, tưởng tượng, một con người được đặt trong không gian và thời gian, bị
chi phối bởi các khát vọng của anh ta, một con người như anh và tôi. Và tác phẩm
không mang lại cái gì ngoài kinh nghiệm của anh ta, kinh nghiệm có bị hạn chế,
không lấy gì làm chắc chắn”. Đến đây không ai lại không phải thừa nhận rằng tiểu
thuyết mới còn nhằm vào tính chủ quan hoàn toàn.
Nói với tất cả những con người có thiện ý:
Tiểu thuyết mới không có nhân vật, không có cốt truyện,
không từ chương... “Những chiều rộng, chiều cao, chiều dài thì vẫn có từ bao giờ.
Tiểu thuyết mới thêm vào chiều tâm tư làm bằng dĩ vãng, hiện tại, tương lai có
thể banh không gian vật lý thành không gian bao la và hỗn độn thêm lên”. Chính
vì thế, khi mới ra đời người ta cứ nghĩ nó cố tình phớt lờ công chúng phổ thông
mà chỉ quan tâm đến những người nghiên cứu vì nó rất khó đọc. Thực tế không phải
như vậy.
Ngay từ khi bắt đầu cầm bút thì điều đầu tiên mà các nhà
văn mới nghĩ đến không phải là viết cái gì, cũng không phải là xây dựng bao nhiêu
nhân vật… mà điều đầu tiên họ nghĩ tới chính là viết cho ai và họ quả quyết: “Tôi
đã tự nhủ phải viết cho “số đông công chúng”, tôi khổ tâm vì bị coi là một tác
giả khó”. Chỉ cần có thiện ý một chút thôi sẽ dễ dàng nhận ra rằng người đọc được
các nhà tiểu thuyết mới đặc biệt tôn trọng, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có
chuyện coi thường người đọc mà chỉ vì các nhà văn mới có một đòi hỏi tuyệt đối
trong quá trình đóng góp của mình vào nền văn học, nó phải tích cực, có ý thức
và đầy sáng tạo. Chính vì thế cái mà tác giả yêu cầu người đọc, không phải là
tiếp nhận trực tiếp một thế giới toàn diện, đóng kín mà ngược lại anh ta phải
tham gia vào việc sáng tạo. Người đọc trở thành người đồng sáng tạo và ở một mức
độ nào đó anh ta còn sáng tạo ý nghĩa riêng, thế giới riêng, cuộc đời riêng
trong những lần giải mã văn bản khác nhau.
Như thế, đọc tiểu thuyết mới trở thành một công việc đầy
lôi cuốn, hấp dẫn, chủ động, và đầy sáng tạo, đọc tiểu thuyết mới là sáng tác tác
phẩm lần hai. “Chắc chắn, chỉ cần không nhắm mắt trước sự hiển nhiên này là có
thể nhận thấy các tác phẩm của chúng tôi nằm trong tầm tay của người đọc, một
khi anh ta chấp nhận thoát khỏi những tư tưởng đã được định sẵn trong văn học cũng
như trong đời sống”.
Không đề xuất những ý nghĩ định trước:
Thế kỷ XX, khoa học tự nhiên đã phát triển đến một trình độ
cần có. Hiện tượng luận đã khám phá ra ý nghĩa sâu kín của các sự vật, khoa học
vật lý chứng minh được rằng có một sự vận động và tương tác bên trong các nguyên
tử, phân tử mà trước kia chúng ta vẫn tưởng bất động. Khoa học xã hội cũng vậy,
âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc và văn học đều có sự đổi mới. Điều này
giúp con người nhận ra rằng mọi thứ đều không ngừng vận động, thế giới quanh ta
mang tính bộ phận, tạm thời, đối lập nhau. “Làm thế nào mà tác phẩm nghệ thuật
lại có thể tính chuyện minh họa cho một ý nghĩa biết trước, cho dù đó là ý nghĩa
nào? Tiểu thuyết hiện đại như chúng ta đã nói lúc đầu, là một sự kiếm tìm, nhưng
là sự kiếm tìm mà chính nó dần dần tự sáng tạo ra những ý nghĩa riêng của nó”.
Rõ ràng, tiểu thuyết mới không hề đề xuất những ý nghĩ định trước bằng cách trình
bày hiện thực hoặc sao chép lại hiện thực mà ngược lại, phải tạo ra một thế giới
hoàn toàn mới trong sự gắn kết riêng của nó.
Sự dấn thân duy nhất của nhà văn là văn học:
Tiểu thuyết mới không xây dựng một ý nghĩa xã hội, một ý
nghĩa lịch sử hay một ý nghĩa đạo đức… Đây có thể là một sự khiêm tốn, cũng có
thể là một sự tham vọng lớn nhưng sự thực là nó không bao giờ có gì được biết
trước. Cả trước và sau khi hoàn thành tác phẩm, không có sự xác thực, không có đề
tài, không có thông điệp, không có cốt truyện, không có nhân vật mà chỉ có một
thứ duy nhất là giá trị văn học. “Dấn thân là ý thức đầy đủ về những vấn đề hiện
tại của ngôn ngữ riêng của mình, là niềm tin vào tầm quan trọng cực kỳ của những
vấn đề đó, là muốn giải quyết chúng tự bên trong. Chính ở đây, đối với nhà văn
là vận may duy nhất để được làm một nghệ sĩ”. Thế là sự dấn thân duy nhất của
những nhà văn mới chỉ có thể là văn học và văn học mà thôi.
***
Cái mới, khi ra đời thì luôn phải chịu những ánh nhìn thiếu
thiện cảm, những cách đánh giá mang tính chủ quan... Nó phải trải qua nhiều thử
thách và cần có thời gian để thể hiện, để khẳng định chính mình. Tiểu thuyết mới
cũng vậy. Phê bình văn học thì luôn dựa vào những giá trị truyền thống để nhìn
nhận, đánh giá và phán xét, chính vì thế khi mới ra đời, tiểu thuyết mới phải hứng
chịu nhiều sóng gió từ phía dư luận. Trải qua thời gian, nó đã chứng minh cho
những tìm tòi, sáng tạo và giá trị nghệ thuật đích thực của mình khiến cho cả
thế giới phải công nhận và thán phục. Thế là chúng ta không chỉ biết đến Michel
Butor, Claud Simon, Jacque Derrida, đặc biệt là Alain Robbe Grillet như những ông
hoàng trong sáng tác mà ông còn là các nhà lý luận tiểu thuyết mới đầy tài năng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Alain Robbe Grillet (1986), Vì một tiểu
thuyết mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
2.
C.De Ligny - M. Raussselot (1998), Văn học Pháp, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3.
Bửu Ý (2006), Tác giả thế kỷ XX, Nxb Văn học, Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI