Sự kiện năm Mậu Thân 1968 ở Đắk Lắk đã lui vào quá khứ
hơn nửa thế kỷ, nhưng đối với
những người trong cuộc như tôi, thì sự kiện ấy như vừa mới diễn ra gần đây
thôi. Tôi luôn có cảm nhận sự kiện năm Mậu
Thân ở Đắk Lắk cũng mang một hào khí như hào khí Xô Viết - Nghệ Tĩnh năm 1930 –
1931, như hào khí khởi nghĩa Nam kỳ năm 1941 – ngút trời uất hận, tràn ngập máu
xương.
Vào giữa năm 1967, Trung ương đã có chủ trương đưa chiến
tranh vào thành thị, kết hợp
công kích quân sự với khởi nghĩa của quần chúng. Tỉnh ủy Đắk Lắk tiếp thu nghiêm
túc chủ trương và khẩn trương làm công tác chuẩn bị một cách toàn diện, phương
án chung cho toàn tỉnh và phương án trọng điểm cho thị xã Buôn Ma Thuột.
Vô vàn công tác chuẩn bị, mà trước tiên phải
quán triệt cho cán bộ đảng viên, các lực lượng
vũ trang và nhân dân tinh thần nghị quyết của Trung ương là tấn công và nổi dậy
đều khắp chiến trường miền Nam để buộc đế quốc Mỹ ngừng cuộc ném bom phá hoại
miền Bắc bằng không quân và ngồi vào bàn đàm phán hòa bình với ta. Chủ
trương này của Trung ương đáp ứng được nguyện vọng thiết tha từ lâu của quân và dân ta. Một không khí náo nức, sôi nổi đợi chờ giờ phút
tấn công – nổi dậy lịch sử diễn ra khắp các buôn làng căn cứ kháng chiến, các xóm
ấp mới giải phóng và ngay trong lòng thị xã Buôn Ma Thuột. Ở đâu cũng sẵn sàng cờ băng, khẩu hiệu
cho ngày nhập thị. Các loại tài liệu, truyền đơn, vũ khí được đưa vào nội thị bằng
nhiều con đường khác nhau. Đặc biệt, lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy vùng
căn cứ và vùng giải phóng, không phải chỉ với các đơn vị vũ trang mà cả với đồng
bào, ai ai cũng nô nức đeo lên áo chỗ ngực trái của mình câu “Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”, và ở cánh tay, câu “Nợ máu phải trả bằng máu”. Tôi
dự buổi diễn tập trên sa bàn của đại đội được phân công đánh vô Đài phát thanh Đắk
Lắk, và cứ nhớ mãi câu nhấn mạnh cuối cùng của người đại đội trưởng “Không ai được quay lại báo cáo mũi tôi tà. Mà chỉ có một
nhiệm vụ là xốc tới!”.
Về mặt quân sự, trên cơ sở nắm chắc lực lượng
địch trên địa bàn, tỉnh đã chỉ đạo triển khai các trận đánh nghi binh và tiêu diệt địch
ngay trong tháng đầu tiên năm Mậu Thân. Tiêu biểu là trận đêm 4.1.1968, Tiểu
đoàn đặc công 401 đánh tập kích sân bay L.19 giữa lòng thị xã; trận đêm
5.1.1968, Đại đội 308 đánh vào Dinh tỉnh trưởng ngụy quyền. Rồi đêm 21.1.1968,
Tiểu đoàn bộ binh 301 tập kích vào thị trấn, chi khu quận lỵ Lạc Thiện (Lắk), cách Buôn Ma Thuột
50 km. Chuẩn bị cho năm Mậu Thân, công tác binh địch vận được đặc biệt lưu ý. Vận
động binh lính ngụy đào ngũ, vận động gia đình binh lính đấu tranh
đòi chồng con về nhà. Nổi trội hơn cả là các cơ sở nội tuyến trong lòng địch
được lệnh hoạt động. Trong đêm 18.12.1967, Tổng kho Mai Hắc Đế của ngụy bị đánh
cháy, thiêu hủy hơn 4200 tấn khí tài. Rồi tiếp
ngay sau đó, cơ sở nội tuyến đã đánh tiêu diệt hơn 50 sĩ quan của Sư bộ 23 khi
chúng đang họp bàn kế hoạch hành quân (theo Buôn Ma Thuột Xuân Mậu Thân 68 - Nguyễn Hữu Trí).
Đối với địa bàn trọng điểm là thị xã Buôn Ma Thuột, Tỉnh ủy
và Thị ủy đã kỳ công làm công tác chuẩn bị, một sự
chuẩn bị, có một không hai trong lịch sử chống giặc ngoại xâm ở Đắk Lắk.
Trước tiên, Tỉnh ủy tăng cường thêm đảng
viên vào Buôn Ma Thuột để hình thành nên bốn Chi bộ nòng
cốt chỉ đạo trực tiếp phong trào bốn ấp 1, 3, 4, 5, là những địa bàn phần đông dân
cư từ vùng tự do Liên khu 5 cũ di cư lên, rất giàu truyền thống cách mạng.
Các công việc cụ thể, chi tiết được triển
khai khẩn trương, hết sức chu đáo: 1) chuẩn bị
15 hầm bí mật để đón cán bộ vào lót sẵn; 2) chuẩn bị 4 hầm đặt Sở chỉ huy các
cánh; 3) chuẩn bị 5 địa điểm cứu thương; 4) lập đội tự vệ quyết tử; 5) chuẩn bị
sẵn lương thực nuôi quân; 6) tổ chức đội ngũ giao liên; 7) phân công người đón
các đoàn biểu tình, khi đoàn vào nội thị; 8) đặt bàn thờ cúng tết ở các ngả đường lớn, để sẵn cơm,
bánh, lương khô tiếp tế cho bộ đội; 9) chuẩn bị sẵn ba ô tô và nhiều xe máy để
phục vụ vận chuyển.
Trong thực tế, trước giờ nổ súng một ngày,
các đồng chí lãnh đạo được phân công chỉ đạo trực tiếp các cánh đã có mặt
tại sở chỉ huy được đặt dưới các căn hầm trong nhà dân:
- Sở chỉ huy cánh Bắc của đồng chí Huỳnh Văn Cần, Phó bí
thư tỉnh ủy, Phó chính ủy mặt trận được đặt tại hầm nhà ông Mười Phu.
- Sở chỉ huy cánh Nam của đồng chí Nguyễn Ái, Tỉnh ủy
viên, Bí thư Thị ủy Buôn Ma Thuột
được đặt tại hầm nhà ông Mười Du.
- Sở chỉ huy cánh Đông của đồng chí Côn, Phó ban an ninh
tỉnh được đặt tại hầm nhà bà Lúa.
- Sở chỉ huy Trung tâm của đồng chí Vĩnh, Tỉnh
đội phó được đặt tại hầm nhà chị Mười Ký.
Đội ngũ giao liên đường dài của Thị ủy cũng đã sẵn sàng ở
vị trí được phân công. Các em Trần Thị Phượng, Lê Thị Phương Đông, Lương, Thạnh,
Tài, Nguyệt…
Tất cả đã sẵn sàng, hồi hộp chờ giờ G phát hỏa.
Vào lúc 5 giờ sáng ngày 30 tháng 1 năm 1968 (mồng một tết
Mậu Thân), lệnh tấn công và nổi dậy được phát ra bởi những loạt hỏa tiễn ĐKB
rung chuyển Buôn Ma Thuột. Quần chúng từ các nơi, đã cơm nắm, cơm đùm lặn lội
ba bốn ngày đường để đến
nơi tập kết xuất quân
Ơû
hướng Bắc, gần 4000 người từ các dinh điền Đạo Tế, Từ Cung. Hướng Nam trên 2500 người, hầu hết là đồng bào dân tộc các buôn phía nam Buôn Ma Thuột.
Hướng cánh Đông, trên 9000 người, cả Kinh lẫn Thượng, từ căn cứ kháng chiến Krông
Bông, từ các buôn làng giải phóng. Đoàn 9000 người từ đường 21 (nay là đường
26) tiến thẳng vào Buôn Ma Thuột và đã bị đàn áp đẫm máu tại đoạn đường qua buôn Kô Tam
(cách Buôn Ma Thuột 12 cây số).
Cuộc biểu tình nổi dậy hơn một vạn rưỡi đồng
bào cách mạng các dân tộc là một sự kiện
lịch sử oanh liệt, chói lọi trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
tỉnh Đắk Lắk. Ở đó ngùn ngụt ý chí thà hy sinh tất cả cho độc lập, tự do. Ở đó máu xương của đồng
bào đã đổ không sao đo đếm được. Và ở đó sẽ mãi mãi lưu danh bao nhiêu
người em, người chị, người mẹ, chỉ với chí căm thù giặc và tình yêu đất nước đã ngoan cường đối diện với bạo tàn súng đạn trong cuộc
đọ sức sinh tử. Tại khu vực buôn Kô Tam, khi địch bắn xối xả vào tốp người đi đầu,
má Hai (bà Huỳnh Thị Hường), chị H'Lanh và sáu chị đi đầu trúng đạn, ngã xuống thì chị
Mười lập tức nhận lá cờ từ tay má Hai, vượt lên phía trước…
Từ cuộc biểu tình nổi dậy năm Mậu Thân
1968, thiết nghĩ chúng ta có thể rút ra một số
bài học rất sâu sắc, vẫn nóng hổi tính thời sự cho hôm nay.
Ta thấy rất rõ, Tỉnh ủy Đắk Lắk không những
tiếp thu nghiêm túc các nghị quyết của Trung ương,
tổ chức quán triệt thấu đáo đến cơ sở, đến từng cán bộ đảng viên và cả
quần chúng nhân dân, mà còn tổ chức thực hiện rất có hiệu quả. Điều nổi bật rất đáng quý là, đảng
không chỉ lãnh đạo về đường lối chủ trương, mà khi bộ đội đã nổ súng, quần
chúng đã xuống đường thì từng cá nhân các đảng viên ở các cương vị lãnh đạo
khác nhau với tình cảm cách mạng sâu sắc và trách nhiệm chính trị rất cao, đều
có mặt ở vị trí chiến đấu. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt đều có mặt tại Sở Chỉ
huy nội thị. Đồng chí Ama Ring, Thường vụ Tỉnh ủy, chỉ huy trực tiếp lực lượng
nổi dậy cánh Đông – và ở đội quân hướng này, có rất nhiều đảng viên đã hy sinh,
hoặc bị bắt. Tiêu biểu nhất là đảng viên Bùi Thế Châu, công tác ở Ban dân quân
Tỉnh đội, là người cầm cờ đi ở tốp đầu, đã xông lên chiến đấu để
làm câm họng khẩu đại liên của quân ngụy đang nã đạn vào đoàn biểu tình và đã anh dũng hy
sinh (theo Binh địch vận và đấu tranh chính trị tỉnh Đắk Lắk trong tổng tấn
công tổng nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - tài liệu của Ban Liên lạc ngành Binh
địch vận và đấu tranh chính trị tỉnh Đắk Lắk).
Rõ ràng, sự kiện cuộc tấn công – nổi dậy
năm Mậu Thân 1968, ngoài ý nghĩa lịch sử lớn lao, nó còn chứng tỏ là một kiểu mẫu
sinh động mối quan hệ máu thịt ý Đảng – lòng Dân, một nội dung sống
còn trong công tác xây dựng Đảng.