(Đọc
Mây trắng vẫn bay về -
Thơ
Nguyễn Trọng Đồng – NXB Hội Nhà văn – 2018)
Gắn bó với nghề, là
một giáo viên mẫn cán, đã bước vào tuổi “lục thập nhĩ thuận”, Nguyễn Trọng Đồng
trình làng tập thơ thứ sáu của mình. Mây trắng vẫn bay về - khoảng 70 bài thơ
với 100 trang in. Đây là sự cố gắng lớn cả về công sức và kinh tế của một người
chỉ biết gieo chữ ở buôn làng từ Krông Năng xa xôi.
Chẳng
lẽ trời Krông Năng nhiều gió
Mà
đất thâm trầm trổ lộc, đơm hoa
Mà
nhà sàn vẫn sớm chiều đỏ lửa
Hạt
lúa, củ khoai ngày ấy - bây giờ
Cảm
xúc Krông Năng
Gắn
bó, yêu thương miền quê này mới viết được như vậy. Thấy được nhịp thở của thời gian
làm thay đổi cảnh sắc. Dù vật chất chưa đủ đầy vẫn vững tin vào sự đổi thay của
quê hương trong sự bình yên của nhà sàn đỏ lửa.
Nguyễn
Trọng Đồng có bài lục bát hiếm hoi, dù cố tình ngắt dòng nhưng hồn cốt lục bát
vẫn rõ ràng và có câu thơ khá đắt:
Đợi
em ở phía mùa xuân
Chắt
chiu dòng nhựa trắng ngần quê hương
Đợi
em ở phía mùa xuân
Đây
là viết về nông trường cao su, công nhân cạo mủ cao su chịu nhiều độc hại vẫn gắn
bó với nông trường, cần sự đồng cảm của mọi người, trong đó có Nguyễn Trọng
Đồng nâng niu chia sẻ.
Thơ
của anh không mang tính triết lý nhưng gắn với thời sự. Từ núi rừng Đắk Lắk
nghĩ đến bia chủ quyền ở đảo Nam Yết, Song Tử Tây, khẳng định bờ cõi thiêng liêng,
lòng anh nhiều lần reo lên, hát ca cùng biển cả:
Sóng
bạc đầu trước biển bao la
Tàu
ta lại ra khơi vào lộng
Cột
mốc chủ quyền ở Biển Đông
Đây
là thơ của một công dân có trách nhiệm trước một kẻ thù hung hãn mấy ngàn năm.
Yêu
nước thể hiện lòng biết ơn những thế hệ tiền nhân trao lại qua những hình ảnh cụ thể:
Bốn
mùa hương hoa là bốn mùa ngọn lửa
Tự
đất cha ông nhen nhóm nghìn năm
Trái
ngọt hôm nay từ nụ biếc đất ta nằm
Đất
nước hình cánh chim
Được
hưởng bốn mùa hương hoa là bởi giữ được ngọn lửa truyền thống. Có trái ngọt là từ
nụ biếc trên mảnh đất này. Đạo lý ăn quả nhớ kẻ trồng cây thấm đẫm.
Sinh
ra ở Can Lộc, Hà Tĩnh, yêu câu ví dặm quê hương xứ Nghệ (gồm cả Nghệ An, Hà Tĩnh)
nên anh có bài thơ: Câu ví dặm mùa xuân xứ Nghệ. Bài thơ mang tâm trạng người
xa quê hương vào Tây Nguyên lập nghiệp:
Để
sông Lam chở màu xanh Hồng Lĩnh…
Cho
ta về say câu hát dặm bổng trầm!
Đặc
biệt là câu:
Ai
hay đâu trong mỗi tấc đất quê hương
Có
bóng mẹ tảo tần vịn về từ câu ví dặm ngàn năm!
Tha thiết và lay động tâm hồn bởi tình sâu nghĩa nặng với
quê hương, với mẹ, nhìn quê hương thấy hình bóng mẹ. Câu hát bổng trầm trong
tình mẹ tảo tần nuôi ta khôn lớn. Nhớ đến mẹ là nhớ sự lam lũ, nhưng mẹ mãi là
mùa xuân, mang lại mùa xuân cho con:
Ngày
của mẹ hay mùa xuân ngời ngợi
Bao
sắc hồng còn gọi cánh ong bay.
Ngày
của mẹ
Dù
mẹ đã đi xa nhưng hình bóng vẫn hiện hữu trong cuộc đời như ánh sáng, như “muối
mặn gừng cay dòng sữa ngọt ngào!” để ta đi tiếp trong cuộc đời:
Để
bông lúa cánh đồng xanh biếc gió
Như
con tàu lại chở nắng ra khơi.
Người
đã cho con dòng sữa ngọt ngào
Như
phần đầu đã giới thiệu Nguyễn Trọng Đồng là nhà giáo, nhà giáo yêu thơ, nên tất
nhiên phải có thơ về cái nghiệp của mình. Có một thời giáo viên còn khổ trong cái
khổ chung. Thơ chân thực càng phơi bày nỗi khổ vì miếng cơm manh áo:
Có
những tháng ngày bận rộn vô tư
Sáng
lên lớp, chiều về lo cuốc ruộng.
Ký
ức mái trường
Xào
xạc rừng thông – thao thức dòng sông
Ba
zan đỏ nuôi niềm tin xanh biếc
Nắng
thu về từ cửa lớp lao xao
Trường
quê nghèo nhưng không thiếu ước mơ và hy vọng để thầy trò mạnh bước để hứa hẹn
quê hương ngày càng giàu đẹp.
Nói
đến mái trường là nói đến mùa hoa phượng. Hoa chia tay để hẹn ngày gặp gỡ, nâng
tầm cao cho mỗi tâm hồn. Hoa phượng là bài thơ đáng đọc của Nguyễn Trọng Đồng.
Mùa phượng chia tay cũng là mùa gửi thương, gửi nhớ:
Lại
sân trường thưa vắng bước chân em
Hoa
phượng cháy những nỗi niềm dang dở
Từng
đi qua xạc xào ngọn gió
Vẫn
thấy lòng thao thức với bảng đen.
Gắn
bó với nghề lâu dài mới có nỗi niềm trăn trở, mới thao thức với bảng đen để hạ câu
kết bài thơ:
Cho
ta sống tháng ngày thanh thản
Bạn
bè ơi! Hoa phượng ấy chứng nhân.
Trên
đây là mặt được của thơ Nguyễn Trọng Đồng. Vì quý anh hai lần đồng nghiệp: nhà
giáo – nhà thơ, nên tôi gợi ý mấy điểm yếu để anh làm thơ hay hơn, đọng hơn
trong lòng người đọc.
Đã
in tới sáu tập nên trơn tay, dễ dãi, trùng lặp hình ảnh có sẵn, đặc biệt hình
ảnh con cò: Như cánh cò bay lả bay la (trang 12); Trong cánh cò bay lả (trang
15); cánh đồng cò bay thẳng cánh (trang 17); trong cánh cò bay lả bay la
(trang 20); Cánh cò bay lả dòng sông (trang 24); Cánh cò trắng hai sương
một nắng (trang 29)… Thế là quá nhiều, không dẫn thêm nữa.
Sự
dễ dãi ngay từ việc lựa chọn đầu đề cho mỗi bài thơ. Đành rằng mùa xuân là ước mơ,
hy vọng nhưng không được lạm dụng: Câu ví dặm mùa xuân xứ Nghệ; Đường
xuân đi tới; Mùa xuân khát vọng; Thắng lợi mùa xuân; Mùa xuân hội nhập; Ngày
xuân cảm chuyện…; Mùa xuân gọi tên em; Mùa xuân lễ hội… Còn nhiều nữa.
Tôi
cũng không thích đầu đề bài: Em có nghe thành phố gọi tên mình. Chỉ thay chữ “Tổ
quốc” của bài hát rất phổ biến thành “thành phố” là không nên.
Có
một chi tiết liên quan đến truyền thuyết mà ai cũng biết. Bài Tổ quốc tượng
hình lên mặt trống đồng là bài thơ khá, nhưng câu: Từ lúc Lang Liêu tạo
ra giống dưa thơm (trang 53) thì phải xem lại. Các tài liệu tôi đọc
thì Lang Liêu trong sự tích bánh chưng, bày dày. Còn dưa là An Tiêm trồng,
nay thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa.
Một
vài nhận xét về thơ Nguyễn Trọng Đồng qua tập Mây trắng vẫn bay về, thấy đôi chỗ
còn khiếm khuyết nhưng bù lại là cái tâm, cái tình, trách nhiệm công dân của
nhà giáo – nhà thơ nên cũng đáng đọc.
Tháng
10-2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI