Nhà văn H' SIÊU BYA
(Hội viên Hội VHNT Dak Lak)
NÚI MỜ SƯƠNG
Truyện ngắn
Tôi ghét tiếng gà buổi sớm, nó đánh
thức và gáy ra rả vào tai tôi, “Guôp, mày chỉ là đứa con nhà nghèo tay nứt
chân nẻ, lưng cong vai thô, váy hai màu vải, da dẻ đen xì như hạt dưa hấu, đừng
nằm ườn như con mèo lười trên đống tro như thế, dậy lấy nước và lên rẫy thôi”.
Tôi bịt tai phải thì nghe bên tai trái,
tôi bịt tai trái thì tiếng gáy của nó chui ngay giữa đầu, “Guôp mày chỉ là…,
mày chỉ là…, mày chỉ là…”. Tôi tức mình bật dậy thình thịch đến bên vách lấy
gùi, xếp những chai nhựa xuống cầu thang đi về phía giếng nước chung của buôn cạnh
cây h’rê to đùng như người sắp nằm một chỗ. Nhiều amí amai đang đợi ở đấy, mùa
này M’đrăk khô khốc thiếu nước nặng, giếng nước của nóc nhà nào cũng nhìn thấy đất
chỉ trừ giếng chung của buôn thôi. Amí nói giếng nước này có từ thời Pô Pin
Ea Y’ Tai đến lập buôn. Ban đầu nó chỉ là
cái hốc nhỏ nằm giữa hai khe đá, đàn ông đi làm mệt ghé vốc vài ngụm, đàn bà gùi
củi nặng dừng chân nghỉ lấy hơi, dần dần người ta đào nó sâu thêm, khoét rộng
ra, xếp đá, trét xi măng thành giếng như người Kinh vẫn gọi. Gùi nặng cong lưng,
tôi vơ hết sức của người con gái mới lớn nhấc bổng mắc vào hai vai. Giọt nước từ
những chai nhựa rỉ tong tong tạo thành sợi chỉ dài đứt quãng. Sương giăng kín,
dáng người loạng choạng không nhận ra nhau. Về đến nhà thì chiếc váy đang mặc ướt
sũng, tôi không xếp chai nước lên pra , việc đó có amí tôi làm, quen rồi, tôi
ra hiên giũ váy. Mệt mỏi và thấy buồn. Sương vẫn giăng, gió thổi mùi cỏ hăng hắc
từ quả đồi Seng mới đốt hôm nọ. Seng phát cỏ đốt ba quả đồi, đẽo bảy cán cuốc,
vác chín bao lúa nặng đổ vào bồ. Seng mê tôi như con dê ưa đọt măng non, như
chim non thích sâu bọ. Amí ưng lắm, gật gù khen mãi “Siêng phát cỏ thì sẽ có
rẫy lớn. Siêng đẽo cột thì sẽ có nhà mới. Siêng làm rẫy thì sẽ có lúa nhiều. Mày
đeo được vòng vào tay nó thì đời mày sướng to”. Tôi lơ đãng nhìn ra cửa sổ
mở ra hướng tây. Xa xa cảnh phố thị tấp nập, xe chạy bon bon, những cô gái nước
da trắng bóc tóc xoăn đang ngồi khoanh chân trong ngồi nhà cửa sổ bằng kính. Tôi
bị ám ảnh bởi bộ phim từng coi khi ngực mới nhô đằng trước, búi tóc gọn lỏn phía
sau, gặp con trai mới lớn biết ngại, người già hỏi chuyện suy nghĩ trước mới nói.
Bộ phim kể về những cô gái trong thành phố, họ sạch sẽ và giàu có. Tôi cũng thích
thế. Thế nên tôi ghét mỗi sáng nghe tiếng gà. Ghét lê chân lên quả đồi nhét hạt
bắp giữa kẽ đất khô khốc. Ghét mùi cỏ cháy và ghét luôn Seng. Tôi không cần thứ
hạnh phúc mà amí nói. Con gái Êđê vất vả từ lúc chui từ bụng mẹ cho đến khi về
bên kia núi với ông bà. Lòng quặn thắt mỗi khi thấy chị Xinh cõng bé Len thòng
lòng đằng trước, chiếc gùi củi ngập mặt phía sau còn anh rể chỉ đủng đỉnh vác xà
gạc huýt sáo. Đám tang, đám cưới là cớ để đàn ông tụ tập trong ngôi nhà dài khật
khưỡng qua nhiều lần mặt trời đi qua đỉnh núi. Các amí, amai lại tìm, cõng về
nhà, cái vai cõng nhiều đứa con rồi lại cõng chồng. Khổ quá. Tôi rấm rứt kể với
amí, amí cười khề khề nhổ toẹt nước bọt xuống tro bếp, “Đã bao đời nay rồi. Đi
chặt cây le phải có đôi. Đi chặt cây nứa phải có cặp. Mày không cõng nó về rồi
mày đi rẫy chung với ai?”. Tôi không cãi amí. Hậm hực chẻ trái cà xoay lưng.
Tôi giận amí, cả ngày không muốn nhìn thấy mặt. Thế nào tôi cũng xếp váy đi về
phía tây nhộn nhịp và sung sướng ấy. Và tôi đã đi thật. Đó là một ngày bắt đầu
mùa mưa. Sương tù mù lành lạnh ôm lấy buôn nhỏ dưới chân núi. Tôi ném chiếc gùi
nước cạnh cây h’rê, chai nhựa tung tóe, chị Xinh nhìn tôi tối sầm mặt, tôi cúi
gầm và tất tưởi chạy về phía đường cái lớn để đón chuyến xe đầu tiên.
Tôi đang ở thành phố đông đúc và ồn ào.
Quân - bạn trai người Kinh xin cho tôi một chân phụ việc tại tiệm ăn hè phố. Không
như Seng, Quân cao lêu nghêu và trắng hếu như ruột của măng non, dặt dẹo yếu đuối
như con bê mới đẻ. Tôi gặp Quân trên chuyến xe trốn chạy amí lên thành phố. Quân
nhìn tôi hau háu, “Đúng rồi, em đẹp thế làm sao ru rú mãi chân núi được, lên
thành phố đi có khó khăn gì anh giúp”. Ngày hai lần Quân ghé qua quán ăn, tôi
không quen cái nhìn lấm lét như con mèo ngó miếng thịt khô treo lên bếp của hắn.
Nhưng tôi không nói, tôi chỉ có mỗi Quân là bạn, tôi muốn ở phố, tôi ghét nằm
nhà dài, trống trải và đau lưng. Có lần quán vắng, Quân dí sát vào người tôi, xọc
tay vào ngực sờ soạng, xé toạc chiếc áo mỏng rồi vục mặt vào đấy hung hãn như
con hổ bị dính bẫy của Seng cách đây ba năm. Tôi đứng trơ. Nếu là Seng tôi sẽ tát
bôp bốp vào mặt, gào toác mồm lên hô hoán, mọi người xung quanh sẽ tới, “Đã
nhìn tận mắt, bắt tận tay kẻ phạm tội. Phải đền rượu mười ghè, heo mười con cho
người nó làm cho xấu hổ”. Tôi không làm thế, ở đây không phải buôn làng tôi,
tôi muốn ở phố, tôi ghét mùi cỏ và hơi sương. Tôi đứng im như pho tượng nhà mồ,
trong đầu chấp chới thấy Seng, thấy ánh mắt sang sáng như trăng dưới lông mi
cong vút của anh ấy. Quân nhàu nát tôi đến khi bà chủ trở về. Đó là người đàn bà
béo tròn, đôi mắt như mắt cáo. Thay vì tru tréo bà ném cái nhìn lạnh lùng về phía
Quân, “Chỗ tôi làm ăn chứ không phải nhà chứa. Cút ngay cho”. Quân vội vàng
quên mang tôi đi. Tôi chới với chạy theo như em bé lạc mẹ trong rừng. Có lẽ Quân
không nghe thấy hoặc có nghe nhưng hắn giả vờ. Bóng Quân mất hút giữa đám đông
phố thị. Tôi ngồi bẹp đầu hẻm nức nở. Người ta chỉ trỏ vào tôi như một người đàn
bà bị bắt quả tang dan díu với chồng người khác. Phải rồi, chiếc áo tôi đang mặc
xộc xệch. Tôi muốn ở phố, người đàn ông đang bước xuống xe màu trắng lóa đang đi
về phía tôi. Tôi chợt nhớ đến bộ phim những cô gái trong thành phố, tôi vò đầu
cho tóc rối tung và thút thít như con nai tội nghiệp. Người đàn ông tên Thành
nhẹ nhàng dìu tôi lên xe, tôi kịp nhếch mép cười nụ với những người đàn bà tò mò
thích xói mói. Xe phóng đi trong cơn mưa chiều tầm tã. Và hả hê!
Nhiều mùa trăng hờ hững đi qua, tôi
trở thành nhân tình trong vài nhân tình của Thành - người đàn ông nhìn nghiêng
thấy bụng đi trước, nhìn thẳng thấy cổ rụt ra phía sau, nhìn ngang nhìn dọc người
chỉ ngắn bằng cán cuốc. Giọng Thành trầm và ấm dạy tôi biết nhiều tiếng Kinh. Đôi
khi còn quên dấu nhưng tôi đã nói chuyện lớn sang sảng, trả giá sát rạt những áo
váy treo móc ngoài tiệm đắt tiền. Họ sợ tôi hay sợ túi tiền của Thành tôi không
quan tâm, tôi đã trở thành cô gái thành phố, da trắng tóc xoăn, ngồi khoanh chân
trong ngôi nhà có cửa sổ bằng kính. Tôi không muốn nhớ mình là con gái Êđê, tôi
bắt Thành kiếm cho tôi cái tên người Kinh. Thành làu bàu “Có ngụy trang hàng
đống thứ khác, em vẫn là em thôi”. Trong bữa tiệc gặp bạn bè Thành giới thiệu
tôi với nhiều gã bụng bự “Đây là Ly, bồ em”. Tôi thích thú đón nhận tên
mới như mầm le đón nhận cơn mưa rào. Rồi cảm giác xấu hổ ập đến. Ánh mắt giận dữ
của bà ngoại quấn lấy đầu tôi.
H’Guôp - cái tên bà ngoại đã làm lễ
thổi tai đặt tên khi tôi còn đỏ hỏn, amí nói đó là tên của người bà họ xa đã mất
nhiều năm tuốt ở buôn Sông Hinh. Tại buổi lễ thổi tai, Pô Riu Yang nói: “Nay ta đặt tên cho cháu, nếu cháu ưng
tên ta đặt thì cháu hết khóc và ngủ thật ngon. Nếu không thích tên này, cháu hãy
khóc thật to”.
Sau đó Pô Riu Yang đọc lần lượt tên người quá cố trong dòng tộc, đọc đến tên
H’Guôp thì tôi hết khóc và tên trong tiếng Êđê có nghĩa là “hài hòa” ấy theo tôi
hơn mười tám mùa rẫy nay. Bây giờ là Ly chứ không phải H’Guôp, tôi luôn đính chính
trong giấc ngủ chập chờn.
Buôn Ama Thuột đổ mưa. Những hạt mưa nghiêng nghiêng tạt mạnh vào ô cửa. Tôi
lấy chai hứng đầy. Chợt nhớ đến chai nước trên pra. Người Êđê không quen uống
ly, chỉ thích ngửa cổ tu chai nước ừng ực. Tôi nói với Thành tôi thích ăn bốc, ăn
bốc cơm nóng với lá mì giã nhỏ xào khô đựng trong lá chuối hơ, ngon lắm, thơm lắm.
Thành bảo thôi đi cách sống nguyên thủy. Sao lại nguyên thủy? Nguyên thủy là gì?
Tôi thắc mắc. Thành cười nheo con mắt trái, híp con mắt phải phô diễn hàm răng
vàng như nghệ: “Tắt điện đi em sẽ thấy bầu trời nguyên thủy”. Tối hôm đó
tôi đã buồn thật nhiều.
Tôi hay ngồi ghế tựa lưng hướng mặt ra vườn. Vườn nhỏ xíu tím rịm nhiều dải
phong lan như cô gái gội đầu tóc xõa. Trông chúng buồn bã và héo quắt. Tôi nhớ đến
giỏ phong lan Seng mang tặng cạnh giếng, chắc giờ chúng cũng đang bung hoa. Tôi
nghĩ đến Seng và amí. Chắc họ ghét tôi như ghét đứa nuôi ma lai, hận tôi như hận
người trồng thuốc độc. Tôi đã giũ bỏ họ như giũ một con sâu róm bám lên áo để tìm
hạnh phúc mơ hồ nơi phố thị. Không có đêm nào tôi không mơ xấu, tôi mơ thấy amí
chết vì thương nhớ tôi, tiếng khóc hờ chật ních từ gian khách đến gian bếp, tiếng
trống đánh lên mặt da trâu cái thùng thình, tiếng ching k’năh u buồn báo hiệu có
người đi xa. Hồn amí đứng trên cầu thang bảy bậc, amí nói atâu yang đừng đón amí
đi sớm, amí chờ con gái từ buôn Ama Thuột trở về. Tôi thức dậy lau mắt. Mở cửa
sổ nhìn về hướng đông, man mác!
Người phụ nữ trẻ đẹp quỳ sọp dưới chân, cầu xin tôi đừng yêu Thành nữa. Thành
đã có vợ và hai đứa con. Chị ấy khóc như dòng thác chảy. Tôi động lòng thương xót,
tôi chưa từng yêu Thành, tôi chỉ mượn bóng râm để nghỉ chân thôi. Người Êđê chỉ
quỳ gối khi người đó có tội nặng, tội trộm cắp, tội bất hiếu với mẹ cha, tội
ngoại tình, “đi thuyền sang đất của người ta”,… Còn chị? Chị có tội gì?
Tội không đủ sức buộc chỉ vào chân vì chồng có tính “dao có rồi còn đi kiếm
sắt, cơm có rồi còn đi kiếm lúa, cá có rồi còn đi bắt nữa” sao? Tôi áp mặt
mình vào lưng chị. Chị sụt sùi. Người phụ nữ người Kinh cũng khổ sở như chúng tôi.
Tôi để lại cho Thành một đôi tất em bé trong ngăn kéo. Đôi tất nhỏ xíu màu
xanh hiện mờ tên Guôp màu vàng chính giữa. Tôi đã đan trong những ngày hoang hoải
nhớ núi. Chắc Thành không biết ý nghĩa đôi tất ấy. Mà tôi cũng không cần. Tôi
trở về vùng núi mờ sương của tôi.
Mưa lã chã. Nước cống đen ngòm tràn lênh láng lối đi. Trong ngôi nhà cửa kính,
người chồng đang vung nắm đấm khỏe như trâu rừng vào khuôn mặt vợ, tiếng khóc
thét, tiếng đổ vỡ hòa lẫn với tiếng mưa. Tôi rùng mình sợ phố thị. Sải bước chân
dài về phía dốc núi mờ sương.
KTX, 25.7.2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI