Nhà thơ NGUYỄN DUY XUÂN
(Hội viên Hội VHNT Dak Lak)
TỔ QUỐC TRONG TIM NGƯỜI LÍNH BIỂN
Khi tôi viết những dòng này, biển Đông
vẫn gầm gào cuộn sóng. Không chỉ sóng đại dương tự ngàn đời vẫn vỗ mà còn có sóng
từ dã tâm đen tối của ngoại bang đang rình rập xâm chiếm biển đảo quê hương. Và
những người lính biển chưa bao giờ có được một phút giây bình yên để ngắm cánh
hải âu chao mình trên ngọn sóng. Và vì thế chưa bao giờ thơ ca viết về người lính
biển lại nở rộ như hiện nay, nhất là sau những hành động ngang ngược của Trung
Quốc đem tàu chiến, giàn khoan xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam hồi đầu
tháng 5.2014. Ta bắt gặp ở đây những gương mặt quen thuộc của thi ca Việt Nam đương
đại như: Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Việt Chiến, Đặng Bá Tiến, …;
những gương mặt còn mới mẻ đối với người yêu thơ như Bùi Văn Bồng, Huệ Nguyên, Đỗ
Thị Hoa Lý, Hồng Diệu… và cả những người trong cuộc đó là các chiến sĩ đang ngày
đêm đối mặt với hiểm nguy nơi đầu sóng ngọn gió để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng
của Tổ quốc. Sự đa dạng đó làm nên bức tranh nhiều sắc màu cho mảng thơ ca viết
về người lính biển.
Thế hệ những người lính biển hôm nay
vẫn tiếp nối truyền thống hào hùng của cha anh thời đánh Pháp, đánh Mỹ: Khi Tổ
quốc lâm nguy, tuổi trẻ sẵn sàng xả thân vì sự trường tồn của đất nước: Họ đã
lấy ngực mình làm lá chắn/ Để một lần Tổ quốc được sinh ra (Tổ quốc ở Trường
Sa - Nguyễn Việt Chiến). Những người lính hi sinh trong trận Gạc Ma năm xưa
đã trở thành một biểu tượng đẹp cho tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường của dân
tộc trong cuộc chiến đấu bảo vệ biển
đảo quê hương: Những chàng trai mười tám đôi mươi/ ngực căng gió ôm chặt cờ đỏ/
chân cắm đá như cọc gỗ Bạch Đằng/ chở che cho biển đảo quê hương/ trước bom đạn
quân thù xối xả/ máu các anh thắm đỏ màu cờ… (Các anh sống mãi trong lòng
nhân dân - Nguyễn Duy Xuân). Các anh đã tạc vào thế kỉ “Dáng đứng Việt Nam”
hiên ngang, bất khuất trong suốt chiều dài lịch sử hào hùng của đất nước: Chưa
bao giờ khuất phục lũ xâm lăng/ Ngàn năm trước và bây giờ vẫn thế/ Lòng dân ta
vẫn vẹn nguyên hào khí/ Của Đống Đa, Như Nguyệt, Bạch Đằng… (Biển những
ngày này - Đặng Bá Tiến).
Trường Sa - Biển Đông - nơi đầu sóng
ngọn gió. Ở đó người chiến sĩ ngày đêm phải đối mặt với bao gian khó hiểm nguy.
Tuy không có cảnh trèo đèo vượt suối “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
hay “mưa dầm cơm vắt”… nhưng người lính nơi đảo xa lại có những
thử thách mà đất liền không có. Sẽ là khập khiễng khi so sánh gian khổ mà thế hệ
cha anh đã chịu đựng với gian khổ mà người lính biển phải trải qua hôm nay. Thời
chiến tranh giải phóng dân tộc, đất nước vừa thoát khỏi đêm trường nô lệ, khó
khăn thiếu thốn vật chất là lẽ đương nhiên. Người lính thời đó đã vượt qua với
tinh thần nghị lực vô song. Có thể nói, ở thời kì ấy, cái gian khổ, thiếu thốn
không dành cho riêng ai. Bởi thế, cả dân tộc mới chung một ý chí: “Không
có gì quí hơn độc lập tự do!” (Hồ Chí Minh); “…toàn đất nước có một tâm hồn có chung khuôn mặt” (Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa,
Chế Lan Viên), để rồi làm nên lịch sử mang tầm vóc thời đại: Điện Biên Phủ và Đại
thắng mùa Xuân.
Người lính hôm nay sống, chiến đấu
trong một hoàn cảnh khác xa so với thời của cha anh. Cái gian khổ, thiếu thốn
không còn ghê gớm như xưa, nhưng nó vẫn là thử thách đối với nghị lực con người;
bởi đặt trong bối cảnh chung của xã hội, người lính biển phải chịu nhiều thiệt
thòi. Trong lúc bạn bè cùng trang lứa yên tâm học tập nơi giảng đường đại học
hay bằng lòng với công việc làm ăn ổn định, lo vun đắp tổ ấm gia đình… thì những
người lính vẫn ngày đêm đối mặt với gian lao, nguy hiểm canh giữ biển trời Tổ
quốc.
Gian khổ mà người lính biển phải trải
qua là môi trường sống khắc nghiệt giữa trùng dương: “Những luống rau xanh khó tươi vì thiếu nước/
Đất ít, khô cằn, nắng xối, muối mặn hơi/ Giông gió liên miên cuốn dễ sức người/
Rau không tốt bữa cơm người khó nuốt.” (Thương lắm Trường Sa ơi,
Hồng Diệu); và “Nơi đây gió lộng bốn bề/ hất tung chậu cảnh vừa kê trước thềm/ lạnh lùng
là gió nửa đêm/ nóng ran ngọn gió ngang triền đảo trưa…” (Gió cát
Trường Sa, Bùi Văn Bồng).
Trong hoàn cảnh đó, người lính biển
khát khao cháy bỏng cơn mưa: Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh Tồn/ Bóng đen sẫm
như gốc cây khô cháy/ Mắt đăm đăm nhìn về nơi ấy/ Nơi cơn mưa thăm thẳm xa khơi...
(Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Trần Đăng Khoa). Nhưng có lẽ đấy chưa phải là
thử thách lớn đối với người lính biển. Gian khổ thiếu thốn vật chất và sự khắc
nghiệt của thời tiết, các anh có thể vượt qua, nhưng thiếu thốn tinh thần, tình
cảm thì quả là liều thuốc thử “đặc biệt”, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại như
chúng tôi đã nói ở trên. Bài thơ Câu trả lời cho tình yêu người lính biển
trong tôi của tác giả trẻ Hồng Diệu đã nói hộ người lính biển tâm trạng đó:
Có vợ rồi cũng chịu cảnh chia đôi/ Thèm hơi ấm nào đâu có nổi/Vợ sinh con cũng đành
chờ đợi/ Đến phép về mới thấy nổi mặt con..." (Câu trả lời cho
tình yêu người lính biển trong tôi, Hồng Diệu).
Trong những ngày hè nóng bỏng tháng
5.2014, trước việc Trung Quốc ngang nhiên đem giàn khoan Hải Dương 981 xâm
phạm vùng biển chủ quyền của Việt Nam, bài thơ “Tiếng biển” của một
người lính xuất hiện trên Facebook đã tạo được sự đồng cảm của hàng triệu trái
tim đối với những người lính nơi biển xa: Hậu phương đất liền yên tâm nhé vợ
ơi/ Cuối tuần về quê cho anh nhắn đôi lời/ Thưa với cha và thắp hương khấn mẹ/
Anh vẫn vững vàng nơi biển đảo xa xôi... (Tiếng biển, Fb Lính Biển
Việt Nam).
Trong tình cảm của người lính dành
cho hậu phương, tình yêu đôi lứa có cung bậc nồng nàn cháy bỏng của tuổi hai mươi.
Trần Đăng Khoa đã rất thành công về chủ đề này qua bài “Thơ tình người lính biển”
nổi tiếng từ những năm tám mươi của thế kỉ trước: Vòm trời kia có thể sẽ không
em/ Không hiểu nữa. Chỉ có anh với cỏ/ Cho dù thế thì anh vẫn nhớ/ Biển một bên
và em một bên... (Thơ tình người lính biển, Trần Đăng Khoa). Bài thơ
có giai điệu ngọt ngào, sâu lắng đã khơi gợi cảm xúc để nhạc sĩ Hoàng Hiệp viết
nên ca khúc cùng tên lay động tâm hồn bao thế hệ thanh niên.
Những người lính: “Tuổi
đôi mươi lồng lộng biển trời/ Mắt trong vắt chưa một lần hò hẹn/
Đêm mơ còn nũng nịu gọi “Mẹ ơi!” (Thao thức Trường Sa, Nguyễn Thế
Kỷ) đã vượt lên tất cả, chấp nhận gian khổ, hi sinh tuổi thanh xuân vì biển đảo
quê hương.
“Chuyện
gia đình tạm gác lại phía sau” khi “Tổ quốc gọi tên mình”, người lính sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ thiêng liêng:
Tổ quốc gọi rồi... cha phải đi thôi/ Con trai à, việc nhà nhờ con nhé/ Vì
cha biết... con rất mạnh mẽ/ Sẽ là bờ vai cho mẹ dựa thay cha… (Nếu một
mai cha không về nữa, Facebook “Tâm sự người lính biển”).
Nói đến chiến tranh là nói đến mất mát
hi sinh. Trong bối cảnh hiện nay, chủ quyền biển đảo của Tổ quốc đang bị ngoại
bang nhòm ngó lấn chiếm, bất cứ lúc nào người lính biển cũng phải đối mặt với
hiểm nguy. Người lính biển hiểu rõ điều đó, cho nên dẫu có lo lắng cho mẹ già,
con thơ hay thương nhớ một bóng hồng, các anh vẫn kiên định tinh thần, cái tinh
thần của cha anh một thuở: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
(Tây Tiến, Quang Dũng): Nghẹn ngào chào mẹ ra đi/ Mẹ nuôi con lớn chưa
gì báo ân/ Nhưng mẹ ơi… Tổ quốc cần/ Đời trai bao lớp hiến dâng thân mình (Tiếng
gọi của biển, Facebook “Lính Biển Việt Nam”).
Biển gọi! Những chàng trai mười chín
đôi mươi chẳng thể nào yên: Con chẳng thể ngồi yên ngày rách những thân tàu/
bạn con giành giật tương lai cho các em mình trên đầu mũi đạn/ máu vẫn chảy mặn
đường cong chữ S/ con có thể ngồi yên?
(Biển gọi, Huệ Nguyên). Bởi
thưa Mẹ, chúng con cũng như cả dân tộc này đã quyết: không thể để lưỡi bò liếm
biển/ vạn vòi rồng không hiếp nổi con cháu Lạc Long Quân (Biển đảo ta ơi,
Nguyễn Đức Khẩn).
Đằng sau các anh là cả hậu phương
bao la “Mẹ Tổ quốc vẫn luôn ở bên ta” (Tổ quốc ở Trường Sa,
Nguyễn Việt Chiến).Trong tim mỗi người con đất Việt, Trường Sa không xa, Trường
Sa gần lắm! Trường Sa mãi mãi trong lòng Đất Nước, trong tâm hồn người lính biển,
trong tình yêu lứa đôi: Không xa đâu Trường Sa ơi/ Không xa đâu Trường Sa ơi!
Vẫn gần bên em vì Trường Sa luôn bên anh/ Vẫn gần bên anh vì Trường Sa luôn bên
em (Gần lắm Trường Sa, Huỳnh Phước Long).
Ai đó bảo, thơ viết về biển đảo chưa
nhuyễn, chưa có chiều sâu. Điều đó có thể đúng nhưng tôi nghĩ cái cốt lõi ở đây
là nó đã nói lên được tiếng nói của cộng đồng ở một thời điểm mà đất nước đang đối
mặt với nhiều thử thách. Thơ ca không thể cứ sống mãi trong ánh hào quang của
quá khứ hay co mình lại trong cái tôi chật hẹp suốt ngày ngâm ngợi vịnh ca mà
phải dám đối mặt với cuộc sống để nói lên tiếng nói lương tri con người.
Đọc những vần thơ ấy, chúng ta linh
cảm được cái thiêng liêng từ sự hi sinh của người lính để “Thêm một lần Tổ quốc được
sinh ra” (Tổ quốc ở Trường Sa, Nguyễn Việt Chiến).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI