Nhân 200 năm ngày mất của Đại
thi hào Nguyễn Du (1820 – 2020)
Nói đến Đại thi hào Nguyễn Du, trước hết
không ai không nhớ đến hai câu kết trong bài
thơ “Độc Tiểu Thanh Ký” của ông: Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (“Ba trăm nữa mơ màng/ Ai trong thiên hạ khóc chàng Tố Như “– Xuân Diệu dịch). Nguyên văn bài thơ đó như sau:
Phiên âm
Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc
điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Cuốn Thơ
chữ Hán Nguyễn Du do các cụ Lê Thước, Trương Chính chủ trì biên soạn với sự tham gia của nhiều người (NXB Văn học, 1965) có 249
bài. Đây là lần đầu tiên thơ chữ Hán của Nguyễn Du được công bố nhiều nhất,
được tìm hiểu xuất xứ và chú giải
kỹ nhất. Bài Độc Tiểu Thanh ký được các soạn giả phát hiện: “bài này không phải làm
khi nhà thơ đi qua mộ Tiểu Thanh, mà khi còn ở nhà” (trích “Lời giới thiệu” của Trương Chính).
Bài thơ không xếp vào phần thơ đi sứ mà giữ trong tập Thanh Hiên Thi Tập
, ở phần “Làm quan ở Bắc Hà 1802-1804”. Bản dịch sau đây (cả dịch nghĩa và dịch thơ) là của
Vũ Tam Tập, rút từ cuốn
sách ấy.
Đọc truyện nàng Tiểu Thanh
Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi
hoang
Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc
trước cửa sổ mà thôi
Son phấn có thần chắc phải xót
chuyện xảy ra sau khi chết
Văn chương không có mệnh mà cũng
bị liên lụy, đốt đi còn sót lại một bài
Mối hận cổ kim, thật mà khó hỏi
ông trời
Ta tự coi người cùng một hội, một
thuyền với nàng là kẻ vì nết phong nhã mà mắc phải nỗi oan lạ lùng
Chẳng biết ba trăm năm sau nữa
Thiên hạ có ai khóc Tố Như ta?
Dịch thơ
Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn
vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Ngoài bản dịch
thơ của Vũ Tam Tập, còn có các bản dịch thơ của Quách Tấn, Thân Bá Trường Sơn.
Muốn hiểu một
phần tâm sự của Đại thi hào qua bài thơ trên, trước hết phải hiểu về cuộc đời và
cái chết oan ức của nàng Tiểu Thanh.
Truyền thuyết
kể rằng Tiểu Thanh (1594 – 1612), họ Phùng, tên Văn Cơ, người Quảng Lăng, tỉnh
Giang Tô, Trung Quốc. (Có truyền thuyết nói nàng người Dương Châu, con nhà gia thế, tên chữ là Phùng
Huyền Huyền). Mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, được một bà sư nuôi và cho ăn học. Năm 16
tuổi, nàng lấy một người họ Phùng, và để tránh đồng tính, nên gọi là Tiểu
Thanh. Vì vợ cả ghen, nàng phải lánh
ra ở nhà riêng của Phùng sinh
trên núi Cô Sơn, cạnh Tây Hồ rồi buồn bực mà chết lúc mới 18 tuổi, đời Vạn Lịch
nhà Minh, nay còn mộ ở Cô Sơn. Trước khi chết Tiểu Thanh cho vẽ một bức chân dung truyền thần
nàng. Về bức vẽ đầu tiên, nàng
nói: Hình tôi thì giống, nhưng chưa lột hết thần của tôi. Với bức
thứ hai: Thần thì được rồi, nhưng bóng dáng chưa được linh động. Đến bức vẽ thứ
ba, đủ lộng lẫy, nàng nói: Được rồi
đấy. Rồi nàng để bức tranh ở trước giường, đốt hương thơm, khấn: Tiểu Thanh! Tiểu Thanh! Chốn
này có phải là duyên phận của mày đâu. Nói xong, nước mắt chan hoà, nấc lên một tiếng rồi chết
(Theo Mai Quốc
Liên, “Nguyễn Du toàn tập”).
Tiểu Thanh
đã tự mình đốt các bài thơ của mình, chỉ để lại 12 bài gọi là tập Phần dư. Theo Nguyễn
Quảng Tuân, sách Nữ liêu trai chí dị có chép rằng: “Người vợ cả biết chuyện giận lắm.
Người vợ cả đòi lấy tập thơ. Thơ đưa ra cũng bị đốt hết. Người ta lục bản thảo, không còn
chi nữa. May khi nàng sắp mất có mấy chiếc xuyến hoa, tặng cho con gái nhỏ của nàng, bọc
vào hai tờ giấy. Chính ở những
tờ giấy ấy, người ta thấy thi cảo của nàng gồm 12 bài”. Người ta cho khắc in số
thơ đó, đặt là Phần dư tập. Đọc chuyện kể về nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã hết sức thương xót,
đồng cảm với số phận của người con gái tài tình mà bạc mệnh, viết ra bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”.
Nói đến Đại
thi hào Nguyễn Du, trước hết cũng là nhớ đến Truyện Kiều, kiệt tác của Người. Truyện
Kiều vốn tên là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu đứt ruột mới), một tiếng khóc xé
lòng đầy cảm thông của Nguyễn Du cho những người phụ nữ có tài có sắc nhưng đường đời truân chuyên bất
hạnh: Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là
lời chung. Trong Truyện Kiều, cảnh đầu tiên gây ấn
tượng nhất là cuộc “gặp gỡ” kỳ lạ giữa Thúy Kiều với cô kỵ nữ Đạm Tiên – một người con gái
tài sắc bạc mệnh. Sau một ngày cùng hai em nô nức chơi xuân, đến lúc Tà tà bóng ngả về tây/ Chị
em thơ thẩn dan tay ra về bắt gặp cảnh Sè sè nắm đất bên đường/ Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Hỏi ra biết đó là mộ
nàng Đạm Tiên: Vương Quan mới dẫn gần xa/ Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi/ Nổi danh tài sắc
một thì/ Xôn xao ngoài ngõ thiếu gì yến anh/ Phận hồng nhan có mong manh/ Nửa chừng xuân, thoắt, gẫy
cành thiên hương/ Có người khách ở viễn phương/ Xa nghe cũng
nức tiếng nàng tìm chơi/ Thuyền tình vừa ghé tới nơi/ thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!/ Buồng
không lặng ngắt như tờ/ Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh/ Khóc
than khôn xiết sự tình/ Khéo vô duyên bấy là mình với ta!/ Đã không duyên trước chăng mà/ Thì chi
chút ước gọi là duyên sau/ Sắm sanh nếp tử xe châu/ Vùi nông
một nấm mặc dầu cỏ hoa/ Trải bao cỏ lặn ác tà/ Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm. Thúy Kiều động
lòng trắc ẩn: Lòng đâu sẵn mối thương tâm/ Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa/ Đau đớn
thay phận đàn bà/ Lời
rằng bạc mệnh cũng là lời chung/ Phũ phàng chi bấy hóa công/ Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi
pha/ Sống làm vợ khắp người ta/ Khéo thay! thác xuống làm ma không
chồng!/ Nào người phượng chạ loan chung/ Nào người tiếc lục tham hồng là ai?/ Đã không
kẻ đoái người hoài/ Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương. Từ cuộc đời bạc mệnh của người kỹ nữ kiếp trước
vận vào cuộc đời sau này của mình, rồi liên tưởng tới nỗi đau
muôn thuở của “một nửa nhân loại”: Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời
chung, mới thấy tâm hồn Thúy Kiều nhạy cảm đến chừng nào! Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân
từng nhận xét về Nguyễn
Du: Nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy. Trong
bài Tựa Truyện Kiều, ông nhận xét: Thúy Kiều khóc Đạm
Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một;
người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là
một cái thông lụy của của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy. “Từ một
Đạm Tiên, Kiều khái quát đến phận đàn bà. Nguyễn Du lại không chỉ mở rộng
đến đây mà ý thơ mở ra đến
thắt lòng: Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung! Lời chung, trong
đó có thi hào Nguyễn Du? Trong đó có bao
nhiêu số phận tài hoa mà bạc mệnh? Nhớ khi Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh và nhà thơ tự hỏi:
Bây giờ ta khóc cho nàng, còn
ta? Hơn ba trăm năm sau liệu ai khóc Tố Như? Thúy Kiều thật trong lịch
sử mất đi, Thanh Tâm Tài Nhân đã khóc cho Thúy Kiều. Hai
trăm năm sau tiếng khóc của
Thanh Tâm Tài Nhân lại là của Nguyễn Du! Cái vòng hệ lụy ấy, cái sự liên tình ấy
vì đời quá bạc nên còn mãi” (Hồn ma Đạm Tiên trong Truyện Kiều, Hà Linh). Đêm về Thúy Kiều mộng
gặp Đạm Tiên, lại còn “Hẹn nơi gặp gỡ là sông Tiền Đường”!
Ôi! Cái sợi
dây liên tài, liên phận của người xưa sao buộc những thân phận “tài mệnh tương đố”
chặt thế!
Viết về Đại
thi hào Nguyễn Du (1766 -1820), về Truyện Kiều, đã có hàng nhìn tác phẩm. Không phải đợi đến “ba
trăm năm lẻ”, không phải đợi đến khi Người được Unesco công nhận “Danh nhân văn
hóa thế giới” (1965) mà ngay từ khi Truyện Kiều xuất hiện, đã có không biết bao
nhiêu thơ Vịnh Kiều, bao nhiêu bài viết ca ngợi Người. Trước hết là thiên tuyệt bút
của Tiên Phong Mộng Liên Đường đề tựa Truyện Kiều dẫn ở trên. Ở cuốn “Đoạn trường
tân thanh” (tên chính thức Truyện Kiều do Nguyễn Du đặt), năm Thành Thái Nhâm Dần
(1902) ở đầu sách Kiều Oánh Mậu, bản in có bài Đề từ kèm theo tên của Phạm Quý
Thích: Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường/ Bán thế yên hoa trái vị
thường/ Ngọc diện khởi ưng mai Thủy quốc/ Băng tâm tự khả đối Kim
lang/ Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu/
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường/ Nhất phiếm tài tình thiên cổ lụy/ Tân thanh
đáo để vị thùy thương? (Dịch Nghĩa: Người đẹp phải đâu đến Tiền Đường/ Món nợ nửa
kiếp gái lầu xanh chưa được trả/ Mặt ngọc nỡ sao vùi nơi đáy nước/ Lòng băng
tuyết tự thấy xứng đáng với chàng Kim/ Nỗi đau đứt ruột trong mộng, căn
duyên nay đã hết/ Khúc đàn bạc mệnh chấm dứt, oán hận nay còn dài lâu/ Một mảnh
tài tình tự ngàn xưa mang lụy cho người/ Cuối cùng, tiếng mới dành cho nỗi đau
thương?). Cuối bài ghi “Hoa Đường Lập Trai” Phạm Quý Thích đề: Giọt nước Tiền
Đường chẳng rửa oan/ Phong hoa bao trắng nợ hồng nhan/ Lòng tơ còn vướng chàng
Kim Trọng/ Gót ngọc không tiêu chốn thùy quan/ Nửa giấc đoạn trường
tan gối điệp/ Một dây bạc mệnh dứt cầm loan/ Cho hay những kẻ tài tình lắm/ Trời
bắt làm gương để thế gian. Rồi những chùm thơ của các bậc danh nho: Chu Mạnh Trinh, Trần
Bích San, Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến…
Đến gần cuối
thế kỷ hai mươi, một bài thơ viết về Người xuất hiện đã gây một tiếng vang lớn,
góp phần không nhỏ thức tỉnh những người có trách nhiệm xây dựng lại khu di tích Nguyễn
Du và khu lăng mộ Người từ trước đó không khác gì ngôi mộ nàng Đạm
Tiên thuở xưa. Ấy là bài thơ “Bên mộ cụ Nguyễn Du” của thi sĩ Vương Trọng: Tưởng
là phận bạc Đạm Tiên/ Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây!/ Ngửng trời cao,
cúi đất dày/ Cắn môi, tay nắm bàn tay của mình/ Một vùng cồn
bãi trống trênh/ Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề// Hút tầm chẳng cánh hoa
lê/ Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non/ Xạc xào lá cỏ héo hon/ Bàn chân cát bụi, lối
mòn nhỏ nhoi/ Lặng yên bên nấm mộ rồi/ Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm//
Không cành để gọi tiếng chim/ Không hoa cho bướm mang thêm nắng trời/ Không vầng cỏ ấm tay người/ Nén hương tảo mộ cắm
rồi lại xiêu/ Thanh minh trong những câu Kiều/ Rưng rưng con đọc với chiều Nghi
Xuân// Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân/ Phong trần còn để phong trần riêng ai/ Bao giờ
cây súng rời vai/
Nung vôi, chở đá tượng đài xây
nên// Trái tim lớn giữa thiên nhiên/
Tình thương nối nhịp suốt nghìn năm xa…
Từ những
truyền thuyết, huyền thoại, các những nhân vật trong đời thực đã bước vào thi ca. Rồi cũng các nhân vật ấy
cùng hậu thế, từ thi ca bước vào cuộc sống và tiếp nối trở lại về thi ca theo
những vòng tròn vô tận tuần hoàn. Ấy là nhờ tấm lòng tri ngộ của các nghệ
sĩ, những người luôn tâm niệm chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài đã viết nên
những bài thơ giữ gìn và tôn vinh cái đẹp cho muôn đời.
Thanh Minh, 2020
(1). Thơ chữ Hán Nguyễn
Du (Bùi Kỉ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh dịch), Nxb Văn hoá, H, 1959, tr. 69.
(2). Tuyển tập thơ lục
bát Việt Nam (Quang Huy, Võ Văn Trực, Nguyễn Bùi Vợi tuyển chọn), NXB Văn hóa
Thông tin, 1994.
(3). Truyện Kiều. (Nguyễn
Thạch Giang chú giải và giới thiệu), NXB Giáo dục, 4.1996.
(4). Trương Chính: Lời giới
thiệu, sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb. Văn học, H,1965, tr.14.
(5). Nguyễn Đình Chú: - Lại
bàn về hoàn cảnh sáng tác “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du, Văn nghệ, số 23
ngày 4/6/1994.
(6). Nguyễn Khắc Phi: Tiểu
Thanh truyện (giới thiệu và dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài, số 5/1997.
(7). Trần Đình Sử: “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn
Du, sách Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb. Giáo dục, H, 1995.
(8). Nguyễn Quảng Tuân: Cần
phải tìm hiểu chính xác hơn bài “Độc Tiểu Thanh kí”của Nguyễn Du, Tạp chí Hán Nôm, số
1/1994.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI