(Đọc Biển và
quê hương – Thơ Bùi Minh Vũ – NXB Hội Nhà văn – 2020)
Khi nói đến hai tiếng quê hương
là nói đến những gì để yêu và nhớ. Mỗi người lại có cách yêu và nhớ riêng của
mình. Bùi Minh Vũ với tập thơ “Biển và quê hương” đã mang nhiều tâm
trạng và những cung bậc cảm xúc với miền quê của mình:
Quê hương là cái kiềng
ba chân
Ta đỏ lên như lửa
Xác thành tro đi nữa
Hồn cũng bay đi khắp
quê hương
(Quê
hương)
Tình yêu quê
hương vững chãi như thế đứng của chân kiềng, chân vạc lại được tôi luyện trong
lửa đỏ nên không thay đổi để xác thành tro, hồn cũng hòa với quê hương.
Rất nhiều lần
Vũ nhắc đến làng Kỳ Tân:
Sương đêm bảo
Làng Kỳ Tân của mày ở
Đức Lợi kìa…
Trăng khuya bảo
Mẹ của mày ở làng Kỳ
Tân kìa…
Ban mai bảo
Mày về làng Kỳ Tân mà
tìm
(Làng
Kỳ Tân)
Tất cả không
gian, thời gian, ngày cũng như đêm đều nhắc với Vũ về làng Kỳ Tân, vì theo Vũ,
nơi đẹp nhất là làng Kỳ Tân. Có chút cực đoan, nhưng thật sự yêu quê mới viết
như thế.
Trong bài “Ánh
sáng”, Bùi Minh Vũ viết về mẹ thật cảm động:
Dấu chân mẹ đợi cha
mòn mỏi
Xanh bệch chờ con và
nước mắt.
Thường viết
trắng bệch, nhưng xanh bệch là cả tái và xám của mặt người mòn mỏi đợi chờ, để
rồi:
Lần cuối cùng
Từng giọt rời buồn bã
lặn vào đất
Xám xịt.
Trong luân hồi
sự sống, mẹ thành bông hoa:
Hương sắc biến thành
ánh nắng chói sáng đời con
Bài “Cái giếng”
có tứ hay. Cái giếng giữ hồn làng nên “giữ trăng muôn đời”, “giữ những hạt
trăng chưa vỡ”, giữ rất nhiều kỷ niệm quê hương. Cái kết bất ngờ:
Đêm qua
Ai nhổ cái giếng làng
tôi
Trồng lên căn nhà
trắng phếch
Gió ngập ngừng
Trăng rũ rượi
Thả sợi gàu dài tiếc
mãi sợi dây?
Nhổ - trồng,
động từ dứt khoát chỉ hành động trái ngược: nhổ giếng – trồng nhà. Cả hai cặp từ
đều lạ, chưa có người nào viết. Trắng phếch! Đây là thái độ của tác giả. Nhà vô
hồn, vô cảm không có sinh khí nên dẫn đến “gió ngập ngừng”, “trăng rũ rượi”.
Thiên nhiên cũng buồn đau khi thấy nhà thay giếng, dẫn đến câu kết nhói lòng:
“Thả sợi gầu dài tiếc mãi sợi dây?”. Ẩn sau sợi dây là bao nhiêu kỷ niệm về cái
giếng làng, giếng của quê hương.
Bài “Gió qua
đồi” gợi nhiều suy nghĩ về tình mẫu tử:
Giọng mẹ tôi trong bếp
nguội rồi
Còn tiếng gió bay qua
chiều vắng
Mẹ thường gắn
với bếp núc. Hay, thật và đau. Chọn từ đắt: giọng nguội rồi. Không còn lửa đỏ,
không còn nóng. Hay là thế, thật là thế và cũng đau là thế. Dẫn đến đoạn kết lạ
và ấn tượng gieo vào lòng người đọc:
Ngày cũng hết, lá kia
rơi về cội
Giọng mẹ tròn như
những vành nôi.
So sánh giọng
mẹ như vành nôi ru con là sự tiếp nối luân hồi. Mẹ còn mãi như gió qua đồi.
Bài “Bóng mặt
trời” có những câu thơ hay của sự tìm tòi, phát hiện rất mới:
Mỗi ngày mẹ mở thêm
những con đường trên trán
Đến nơi cơm thừa
Nơi mẹ dậm lon bia
chấn thương.
Con đường trên
trán chính là vết nhăn thời gian in hình cuộc sống mưu sinh. Lon bia chấn
thương là vỏ lon bị méo mó, dậm bẹp đi để vào bao tải cho gọn. Bài thơ viết cho
bao người mẹ còn cơ cực, lam lũ:
Chẳng thể nhìn nền văn
minh thiếu bóng mặt trời.
Trong bài “Với
mẹ”, tình cảm chân thực được cụ thể hóa qua hình ảnh mẹ mà ít người viết:
Nhìn mẹ nấu cơm, ăn
trầu
Thấy mẹ nhai cơm cho
em.
Bây giờ có
nhiều loại sữa, nhiều loại cháo dinh dưỡng, chẳng còn ai phải nhai cơm cho con.
Đọc thơ mà đồng cảm, xót xa về một thời để càng thương nhớ mẹ.
Cầm bàn tay mẹ chai
sần
Sờ manh vá trên áo mẹ
bạc màu
Nhặt cọng tóc mẹ rơi
trên gối
Tôi cứ mường
tượng Bùi Minh Vũ tha thẩn, chậm rãi qua cử chỉ thân thương lần tìm ký ức. Mẹ
chính là quê hương.
Tập thơ gần 155
bài, 160 trang in, đây đã là tập thơ thứ 13 của Minh Vũ, không kể tiểu thuyết,
nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn. Điều đó chứng tỏ một bút lực đáng nể trọng.
Tập thơ “Biển
và quê hương” của Minh Vũ kén người đọc, thơ tự do, có tính triết lý, đó cũng
là thế mạnh. Còn thơ truyền thống thì còn phải bàn. Ví dụ như câu lục bát trong
bài “Trăng khuya”:
Từ ngày em đã bòng đèo
Cát nằm như thể đói
meo bóng người
Hình ảnh thì
được nhưng đảo từ để có vần: “bòng đèo” thì không ổn.
Dù sao đây cũng
là tập thơ đáng đọc – tập thơ đậm nhân tình.
Tháng
7-2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI