Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2018

GẶP TRẦN CHI, LẠI ĐƯỢC UỐNG RƯỢU BÊN NHÀ MỒ - ghi chép của PHẠM PHÚ PHONG - CHƯ YANG SIN SỐ: 308 - THÁNG 4 NĂM 2018


                                                                   
                                       


Thi và tửu. Nhân loại xưa nay vẫn thường quan niệm hai thứ này gắn liền với nhau, đến mức có lúc không còn có ý nghĩa vật chất, mà gắn kết với nhau không thể chia cắt, như cùng một bản thể mang ý nghĩa triết học. Cổ nhân đã có thi tiên Lý Bạch uống rượu say nhảy xuống sông ôm trăng mà chết. Tiền nhân cũng đã có Tú Xương đời hơn “Một trà một rượu một đàn bà” hoặc như cái lãng tử ngông nghênh thơ rượu của Tản Đà “Rượu say thơ lại khơi nguồn/ Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình”… Tất nhiên, không phải người nào uống rượu cũng làm được thơ, nhưng hầu như người làm thơ nào, không ít thì nhiều đều uống được chút ít rượu, kể cả các nữ lưu thi sĩ. Uống rượu không còn là thói hư tật xấu mà hàm nhiên trở thành phẩm chất tốt đẹp của thi nhân, nên từ cổ chí kim người ta coi thi – tửu là lẽ đương nhiên và mỗi thi nhân có một kiểu uống/ nơi uống khác nhau, mà phần lớn là uống rượu thưởng trăng, chứ quả là tôi ít thấy ai như Trần thi sĩ, một thi nhân lạc loài của xứ Huế lên đất Tây Nguyên: mang rượu ra bên nhà mồ mà uống! Tôi phải thưa trước với Trần thi sĩ rằng, do cái nghề mê đắm chữ nghĩa của mình mà tôi phải đọc nhiều, trong lịch sử thi nhơn xứ ta, đến lành tính như ngài Tam Nguyên Yên Đổ cũng chỉ mong được uống rượu với bạn hiền: “Rượu ngon không có bạn hiền…”, tôi không biết phong tục của đồng bào mình trên đó ra sao, mà vào đêm khuya anh lại vác rượu ra nhà mồ uống với Amí – người đã ở cõi âm: Đêm trên nhà mồ/ Ngồi bên người đã khuất/ Không gian chia thành hai vùng/ Lạnh ngắt – xốn xang/ Chiếc cần rượu bắt ngang/ Như chiếc cầu vồng bảy sắc/ Vắt ngang qua bầu trời/ Như nối hai đầu: âm – dương/ Amí ơi hãy uống chung cần rượu yêu thương/ Dẫu cái chết đã cách ngăn làm hai nửa/ Đêm có còn dài con đốt bùng lên ngọn lửa/ Mà trầm ngâm nhìn ánh lửa thâu đêm/ Ơi nhịp cần rung theo từng cơn gió thổi ngang/ Đêm trên nhà mồ khơi dậy quãng đời gian khổ/ Qua chín núi mười khe sau lưng còn đỏ lửa/ Cực còn chạy theo bóng amí in dài…
Những câu thơ như âm ấm lửa than ngún âm thầm đâu đó, làm xốn xang tâm can người nghe, mới thấy không còn là chuyện rượu chè ngật ngưỡng, mà là nỗi buồn, nỗi đau mang ý nghĩa nhân văn, được nghiệm sinh từ chính những trải nghiệm cuộc đời của thi nhân. Có lẽ vì thế mà Trần Chi lấy nhan đề bài này làm nhan đề chung cho cả tập thơ khá khiêm tốn mỏng mảnh chỉ 32 bài, phải “độn” thêm mấy bức tranh sơn dầu rất đẹp và hợp với chủ đề (Ký ức tuổi thơ, Cõi ta bà, Đoá vô thường) của hoạ sĩ Bửu Tân vào mà chẳng dày thêm được bao nhiêu.
Sống ở đời không ai là không có ký ức. Chỉ có độ dày, mỏng khác nhau thôi. Và, quan trọng hơn là có biết gìn giữ, chắt chiu, bồi đắp để ngày càng giàu có hơn hay phung phí, làm rơi vãi cạn dần đến mức trở nên trống vắng vô cảm. Người làm văn chương nghệ thuật thường là người giàu có và đầy tiềm năng về ký ức. Đó vừa là niềm hạnh phúc vừa là nỗi khổ đau. Bởi lẽ, những khoảng “bất chợt nhớ” của họ nhiều và thường xuyên hơn. Nhớ niềm vui cũng buồn và tiếc nuối, nhớ nỗi buồn lại càng buồn hơn. Buồn nhưng mà đẹp và đẹp nhưng mà buồn. Trần Chi nhớ nhiều đến sông (13 lần nhắc sông), đến biển (3 bài về biển), nhắc nhiều đến màu sắc và nhất là khi “những câu thơ khó khăn chợt đến”, anh hay tự kiểm, tự nói về mình/ với mình, tự hoạ chân dung mình một cách tự trào (Tự kiểm, Tự bạch, Tản mạn về… tôi, Vô thường), cảm thức cô đơn, lạc loài như một người Đi bên mùa xuân với những ngậm ngùi nuối tiếc khi “Đêm cuối năm ngồi ngẫm lại tháng ngày qua/ Ngẫm lại buồn vui, ngọt bùi cay đắng/ Ngẫm lại những yêu thương, hờn giận/ Ngẫm lại đời qua bao cuộc khóc, cười/ Sấp ngửa cuộc đời, sấp ngửa tôi/ Chợt nuối tiếc một thời nông nổi/ Vô tư buông những năm tháng đi về”. Thời tôi và Trần Chi lớn lên ở miền Nam được bao quanh những sinh khí của các thứ chủ nghĩa hiện sinh, siêu thực, hư vô, lãng du tràn ngập trên sách báo, tham gia hoạt động cách mạng ít nhiều cũng nảy sinh từ các thứ triết lý nhân sinh thời thượng ấy. Khi chưa tròn hai mươi tuổi (1977), anh đã lên với rừng thiêng nước độc để xây dựng quê mới, bỏ lại sau lưng phố xá thị thành, tình bạn tình yêu, những kỷ niệm đẹp của “Tuổi thơ tôi đếm theo mùa những con ve/ Hoa phượng cháy một thời mơ mộng…” vì vậy, khi ngẫm lại những ấn tượng đã trôi qua còn đọng lại, dâng trào ngập tràn ký ức. Về chân dung con người, hầu như từ mấy mươi năm nay Trần Chi không có gì thay đổi: dáng gầy, da hơi đen mai mái (hồi trẻ chưa “lai” đồng bào mình trên đó, không hiểu sao da anh đã thế!), tóc dài, luôn đội mũ bê-rê vì cố che giấu cái đầu bị hói, nhưng khi uống rượu bia bốc lên đọc thơ, giật ngay mũ xuống, đọc xong rồi chợt nhớ ra, len lén đội trở lên… Gần đây, từ ngày làm báo, lên chức trưởng đài, lại tòng teng thêm chiếc máy ảnh, ống tê-lê dài, cứ gặp em nào xinh xinh là chụp! Nhà thơ Mexico Octavio Paz, Nobel văn học 1990 nói rằng: “Con người hiện đại chỉ có tâm lý, không có tâm hồn”. May mắn thay, Trần Chi sống càng ngày càng hiện đại, biết sử dụng tất cả các loại máy di động, vi tính, chụp ảnh, ghi âm, quay phim, dựng hình… thuộc loại hiện đại nhất, nhưng vẫn có một thế giới tâm hồn đa cảm, đa mang. Những câu thơ của anh như những sợi chỉ lóng lánh đa sắc màu, đẹp mà buồn, được kéo ra từ ký ức dệt nên thành chữ, thành câu, thành những tấm thảm xanh thẳm màu ký ức thách thức cả thời gian. Chỉ nhìn vào nhan đề các bài thơ cũng dễ nhận ra toà lâu đài ký ức nguy nga tráng lệ của thi nhân: Ký ức tuổi thơ, Ký ức một thời, Ký ức mười năm, Vầng trăng ký ức, Những ô ngăn ký ức, Vườn xưa,… Ngay cả những bài thơ viết về những cảm quan hiện thực khác, âm hưởng hoài niệm xếp thành những câu thơ dường như cũng được gọi ra từ ký ức (Dòng sông quê hương, Tình xa, Chiều cuối năm viếng bạn, Trước tượng đài Võ thị Sáu, Krông Bông…), khi hát cùng Bài ca đồng đội, sức mạnh cũng được huy động “Với ký ức ba mươi năm phủ bụi” hoặc khi quay về với mình, tự ngắm mình/ soi lại hình tượng tác giả - cái tôi trữ tình của chính mình, trong động thái Tản mạn về… tôi, ký ức bỗng vụt hiện ra: Bạn trách tôi lâu rồi sao chẳng làm thơ/ Hay bụi Tây Nguyên đã phủ mờ ký ức/ Hay men rượu đã làm chai huyết mạch/ Hay bởi “ruồi bu kiến đậu” của đời thường.”
Lại thi với tửu. Lúc nào cũng trong tâm thế gắn liền, sóng đôi thơ với rượu. Thơ với rượu cũng là những nội dung mỹ cảm được nhắc nhiều, như một điệp khúc tâm hồn được lặp đi lặp lại trong tập thơ như trong bài Ché rượu hoặc bài Vườn xưa anh uống đến trào nước mắt: “Ly rượu đắng nửa đời vẫn đắng/ Ta uống vào cay trào nước mắt/ Chợt nghẹn ngào bật hai tiếng: Mẹ ơi!”. Và, khi đọc đi đọc lại tập thơ, tôi mới nhận ra rằng không phải chỉ một lần trong đêm anh Uống rượu bên nhà mồ cùng với Amí mà anh còn uống lần thứ hai vào buổi Chiều cuối năm viếng bạn, người bạn cũng “thoáng hiện về trong đáy cốc/ nói cười như chuyện một đêm mơ” (Quang Dũng) thật cảm động: Hùng ơi!/ Thắp cho mi một nén nhang, điếu thuốc/ Rồi vác mặt nhìn trời thơ thẩn/ Có con chim nào tha niềm vui làm tổ/ Mi chỉ còn như tiếng độc huyền cầm đêm vọng tiếng cô liêu/ Thôi đừng trách cuộc đời sao nghiệt ngã/ Gió xô nghiêng, bạc nửa mái đầu/ Thôi đừng trách chén rượu nồng sao nhạt/ Uống vào rồi mộng mị hoá chiêm bao/ Ừ thì uống/ Uống cạn đời chếnh choáng/ Mây ngang qua hoá lau trắng quê nhà?/ Ừ thì uống/ Uống cả vầng trăng loá/ Mắt có hoa không/ Mà thoáng hiện mi về/ Từ chốn vô cùng/ Nói cười như chưa bao giờ xa cách…/ Thôi giã biệt mà cũng là vĩnh biệt!/ Mi cứ rong chơi trong cõi vĩnh hằng/ Tau ở lại cố kìm không khóc/ Bởi sợ mi bên ấy mưa sa!
Tôi nhớ mang máng là khi Uống rượu bên nhà mồ (2006) mới in ra, tôi đã có viết bài, nay đọc lại nhận ra nhiều điều mới, nên viết lại lần thứ hai. Bởi vì, trong tập thơ, Trần thi sĩ đã có ít nhất hai lần “uống rượu bên nhà mồ”, thì tôi có uống lại lần này cũng không có gì là lạ. Như vậy, để biết “lại được uống” nghĩa là đọc lại tập thơ, chứ thực ra trong đời sống, tôi với Trần Chi đã uống rượu với nhau không biết bao nhiêu lần không đếm hết, nhưng đã có lần nào tôi có cái vinh hạnh là được anh đưa ra nhà mồ để uống cùng anh đâu! Gần đây, sau ba mươi năm gặp lại thi nhân ở đất Phú Xuân, chỉ mình tôi uống rượu, còn anh chơi sang chỉ uống được bia, vì đang bị một chứng bệnh khá phổ biến và sang chảnh, có vẻ như hơi… thiếu văn hoá là hay đứng “tháo bên đường”! Vậy thì càng khó có ngày liều mạng “ừ thì uống, uống cạn đời chếnh choáng” như âm hưởng giọng điệu Vũ Hoàng Chương nghiêng ngã trong thơ anh ngày nào, Trần thi sĩ ơi!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI