(Đọc
Nam quốc sơn hà, SGK Ngữ văn lớp 7, Tập 1, NXBGD, 2014)
Trải qua hàng ngàn năm đánh giặc giữ nước, từ các triều đại
phong kiến cho đến thời đại Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam luôn nêu cao tinh thần
bất khuất, dũng cảm, sẵn sàng xả thân cho Tổ quốc, quyết tâm giữ vững chủ quyền
và độc lập quốc gia. Một trong những minh chứng hùng hồn nhất cho tinh thần ấy
đã được thể hiện
đậm nét qua bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt. Thi phẩm được xem là bản
tuyên ngôn độc lập đầu tiên, khẳng định chủ quyền thiêng liêng quốc gia Đại Việt
trước triều đình phong kiến phương Bắc.
Tương truyền bài thơ ra đời trong hoàn cảnh Lý Thường Kiệt
lãnh đạo toàn quân tiến hành cuộc kháng chiến chống giặc Tống xâm lược vào năm
1076 - 1077. Điều có tính huyền thoại là trong nhiều thư tịch cổ đều thống nhất
cho rằng do thần nhân đọc lên khiến cho quân Tống hồn xiêu phách lạc, nhờ đó
khí thế quân ta mạnh chưa từng có và thu về thắng lợi hoàn toàn. Nguyên tác
cũng như bản dịch bài thơ này có giọng điệu hùng hồn, lời thơ khảng khái, hào sảng,
khẳng định nền độc lập, tự chủ của đất nước ta như một chân lý hiển nhiên mà tạo hoá đã phân biệt rõ ràng tại "thiên thư" (sách trời), xin
chép ra đây nguyên tác và một số bản dịch thơ được xem là hay nhất để
cùng đọc lại:
Nguyên tác: Nam quốc sơn hà, Nam đế cư
Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư.
Bản dịch của sách
giáo khoa hiện hành:
Sông
núi nước Nam, vua Nam ở,
Vằng
vặc sách trời, chia xứ sở.
Giặc
dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng
mày nhất định phải tan vỡ.
(Lê
Thướt - Nam Trân dịch)
Hai bản dịch
khác:
Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành đã định tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!
(Trần
Trọng Kim dịch)
Nước Nam Việt có vua Nam Việt,
Trên sách trời phân biệt rành rành.
Cớ sao bay dám tranh giành?
Rồi đây bay sẽ tan
tành cho coi!
(Nguyễn
Đổng Chi dịch)
Trước
hết, tên Nam quốc sơn hà là do người đời sau đặt dựa vào nội dung tư tưởng và bốn
chữ đầu tiên của câu thơ mở đầu, còn bản thân bài thơ vốn dĩ không có tên. Tuy
nhiên, dù đặt tiêu đề nào đi nữa, tư tưởng bao trùm toàn bộ thi phẩm vẫn là sự
khẳng định nền độc lập, chủ quyền quốc gia như một tinh thần bất biến, kiên định.
Chính kẻ thù đi ngược lại "sách trời" đã định ấy nên mới gánh chịu cảnh
tang tóc tơi bời, âu cũng là kết quả của sự "nghịch lỗ" vậy.
Như
trên đã nói về hoàn cảnh ra đời có tính huyền sử của bài thơ, song cha ông ta đã
gởi vào muôn đời sau một bài học rất quý giá về tinh thần tự tôn dân tộc, khẳng
định chủ quyền bất khả xâm phạm về những gì thiêng liêng của Tổ quốc. Yếu tố huyền sử là thần nhân đọc thơ bên phòng tuyến sông Như Nguyệt,
nhưng sự thật lịch sử thì đấy là sự tranh chấp chủ quyền giữa người Việt dưới
thời Lý và người Trung Hoa dưới thời Tống. Bài thơ ngắn gọn, cô đúc, song hàm ý
tư tưởng thì sâu sắc và rộng lớn vô cùng, vì nó đã chạm vào ý thức tự cường, niềm tự hào dân tộc, lòng yêu nước thiết tha của hàng
triệu con tim người dân Việt suốt bao đời nay.
Mở
đầu bài thơ, tác giả đã khẳng định nguyên tắc độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam
với một giọng điệu dứt khoát, rõ ràng, có tính quyết liệt: "Sông núi nước
Nam, vua Nam ở". Nguyên tắc độc lập đó là chân lý bất biến, vừa thuận
"sách trời", vừa hợp lòng dân. Vua Nam
Việt cai quản muôn dân trong phạm vi bờ cõi của mình, không xâm chiếm, đoạt lấy
của ai, do đó mà được mọi người ủng hộ, trời
đất cũng chiều theo lòng người mà cho yên ổn, vững bền. Mượn quan niệm trời định,
lập trường đã được xác quyết và xem đó như là căn cứ pháp lý để khẳng định chủ
quyền. Dân tộc Việt vì thế có đủ tư cách của một Nam bang tồn tại ngang hàng với
phương Bắc. Điều đó sau này Nguyễn Trãi đã khẳng định hùng hồn và minh bạch trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo bất tử:
"Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ
cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác".
Sau
khi khẳng định tư cách độc lập, chủ quyền của dân tộc như một nguyên tắc bất biến,
trên thuận mệnh trời, dưới hợp lòng người, Lý Thường Kiệt đã kết thúc bài thơ như một lời thề về bổn phận và trách nhiệm giữ gìn chủ quyền thiêng
liêng của đất nước mà toàn dân tộc quyết tâm bảo vệ. Dù trong bất kỳ hoàn
cảnh nào, Tổ quốc vẫn là trên hết, phải giữ cho bằng được chủ quyền quốc gia,
ai đi ngược là có tội với non sông đất nước. Điều này, vào thế kỷ XV, Lê Thánh
Tông cũng đã từng khẳng định: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại
nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không
nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu
ngươi dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội
phải tru di!". Gần đây nhất, vào những ngày mùa thu lịch sử sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Hồ Chủ tịch, sau khi nêu lên những cơ sở pháp
lý, khẳng định tội ác của thực dân Pháp trải qua hơn 80
năm xâm lược Việt Nam, đã mạnh mẽ khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền
quốc gia: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy". Qua đó, ta thấy tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập trở thành một mạch nguồn
thiêng liêng không bao giờ vơi cạn qua lớp lớp thế hệ người
Việt. Tất nhiên giữ nước, bảo vệ chủ quyền phải đi liền với chính nghĩa, vì
chính nghĩa sẽ thắng hung tàn, kẻ thù dù mạnh
đến đâu, nếu trái với chân lý đã được nhân loại cơ
bản thống nhất, ắt phải chuốc lấy thất bại thảm hại: "Chúng bay sẽ bị đánh
tơi bời!"
Một
bài thơ ra đời cách đây hàng ngàn năm, song tư tưởng độc lập, chủ quyền và bài
học giữ nước vẫn còn nguyên giá trị. Trong bối cảnh thế giới và trong khu vực đang có nhiều tranh chấp chủ quyền khốc liệt như hiện nay, đọc
lại Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, chúng ta càng
được tiếp thêm sức mạnh, niềm tin tưởng lớn lao vào điều chính nghĩa ngàn đời
của dân tộc. Việt Nam, một đất nước yêu chuộng hoà bình, có lãnh thổ, lãnh hải
riêng theo luật pháp quốc tế, tất sẽ bảo vệ
được chủ quyền của mình và chiến thắng kẻ thù bằng mọi giá.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI