CON NGƯỜI VŨ TRỤ
TRONG BÀI "TỰ TÌNH"
CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG DƯỚI
GÓC NHÌN
VĂN HÓA TRUNG ĐẠI
Thời trung đại, con người chủ yếu sống
bằng nông nghiệp. Thế nên con người thường dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên
để sống. Do vậy con người trung đại tin ở sự thống nhất trong thế giới. Thiên
nhiên là bạn tri âm tri kỷ của con người. Người phương Đông xưa quan niệm: thiên
nhiên có mối giao hòa giao cảm với con người bởi con người là một "tiểu
vũ trụ" có quan hệ tương thông tương cảm với "đại vũ trụ"
- thiên nhiên ngoại giới (Thiên nhân tương cảm, thiên nhân tương dữ, thiên
nhân tương chi, thiên nhân hợp nhất). Con người là một yếu tố trong mô hình
vũ trụ: Thiên - Địa - Nhân hợp thành "Tam Tài". Con người sống
trong vòng "Thiên phú địa tái" (Trời che, đất chở). Thế đứng của
con người trong vũ trụ là "Đỉnh thiên lập địa" (Đầu đội trời
chân đạp đất). Do quan niệm con người và thiên nhiên có mối giao cảm đặc biệt
như thế nên thiên nhiên cũng là thiên nhiên hữu linh, hữu tâm, hữu tình "Vạn
vật hữu linh". Mặc dầu có những "lệch pha", thế nhưng trong
thế giới thơ Hồ Xuân Hương cũng xuất hiện với một mật độ khá cao hình tượng
"con người vũ trụ" phổ biến của thơ trung đại mà bài "Tự tình"
là một trong những bài thơ tiêu biểu.
Câu thơ đầu tiên: "Đêm khuya
văng vẳng trống canh dồn" đã xuất hiện yếu tố thời gian. Yếu tố thời
gian này được cảm nhận qua tâm trạng của con người vũ trụ. Thời gian của đất trôi
chảy vần xoay theo một quy luật bất biến, thế nhưng ở đây thời gian trong cảm
nhận của nhân vật trữ tình lại như đang trôi qua rất nhanh, gấp gáp. Một chữ
"dồn" đã cực tả tâm trạng thảng thốt xót xa của một con người đang trực
diện với dòng chảy thời gian. Trong câu thơ này nhiều người hiểu: Tiếng trống
canh đánh dồn dập. Chúng tôi hiểu khác. Ngày xưa khi đánh trống để báo hiệu sự
chuyển giao giữa các canh trong đêm ("đêm năm canh, ngày sáu khắc")
người ta thường đánh chậm thong thả từng tiếng chứ không đánh dồn dập. Nên chăng
ta cần hiểu câu thơ thể hiện cảm nhận của nhân vật trữ tình về thời gian qua
nhanh nên độ dài giữa các canh như được thu ngắn lại, như được dồn
lại?
Nếu câu thơ đầu khắc họa tâm thế trực
diện với thời gian vô thủy vô chung của đất trời của con người vũ trụ thì câu
thơ tiếp theo lại khắc họa tâm thế trực diện với khoảng không bao la của vũ trụ
của nhân vật trữ tình: "Trơ cái hồng nhan với nước non". Trong
thơ Hồ Xuân Hương, thi đề con người trực diện với không gian bao la của vũ trụ,
với hiện thực cuộc sống xuất hiện khá phổ biến ở một số bài thơ thông qua cụm từ
"với nước non" hay "với non sông":
- Bảy nổi ba chìm với nước non
(Bánh trôi nước)
- Hay có tình riêng
với nước non (Hỏi trăng (I))
- Nín đi kẻo thẹn với non sông
(Dỗ người đàn bà khóc chồng)
Trong câu thơ nữ sĩ đã tạo dựng phép
đảo ngữ kết hợp với việc đưa từ "trơ" thành một nhịp riêng. "Trơ"
là "ở vào tình trạng chỉ còn lẻ loi một mình". "Trơ"
là "cô" là "độc" của thơ chữ Hán. Nhưng nếu với những độc,
cô của thơ chữ Hán, các thi nhân chủ yếu khắc họa tâm thế của
một tiểu vũ trụ muốn hòa nhập vào đại vũ trụ bao la rộng lớn thì với "trơ",
nữ sĩ lại muốn tạo dựng sự đối lập, đối lập để cảm nhận sự tồn tại, đối lập để
gia tăng cảm giác cô đơn quạnh vắng trong tâm hồn.
Đọc thơ ca Trung Quốc đặc biệt là thơ
Đường ta có thể thấy con người luôn có khát vọng hòa vào không gian gian bao la
của đất trời. Các động tác cúi (phủ), ngửa (ngưởng), nhìn quanh (tứ vọng, tứ cố),
lên cao (đăng cao)… làm cho con người giữ được mối liên hệ bền chặt với ngoại
giới bao la vô cùng tận. Khi con người bất đắc chí thì con người tìm về với thiên
nhiên tạo vật, vũ trụ như tìm về với nguồn cội.
Hành động ngưởng (ngửa mặt lên) để tìm
sự đồng điệu với thiên nhiên mà thiên nhiên và lòng người vốn tương ứng tương cảm.
Thế nên con người đang đau đáu vì cuộc duyên không trọn vẹn thì vầng trăng kia
cũng chỉ có thể là vầng trăng khuyết giữa trời đang dần xế bóng.
Chén rượu hương đưa
say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế
khuyết chưa tròn
Nâng li rượu sầu, cạn chén đơn côi
nhưng ngẫm ra sầu đâu được giải, nỗi buồn nào có vơi? Mô thức nhân vật trữ tình
uống rượu dưới trăng để tìm sự đồng điệu đồng cảm với thiên nhiên tạo vật không
phải là sáng tạo đặc hữu của nữ sĩ họ Hồ mà đây vốn là một mô thức truyền thống
trong thơ ca xưa. Ngày xưa Lí Thái Bạch đã từng nâng chén mời trăng trong bài
thơ nổi tiếng Nguyệt hạ độc chước:
Cử bôi yêu minh
nguyệt,
Đối ảnh thành tam
nhân.
(Cất chén mời trăng
sáng/ Trước bóng thành ba người).
Để
rồi tứ thơ này cũng đã được Nguyễn Trãi tiếp thu trọn vẹn trong tác phẩm của mình
sau này:
Rượu đối cầm đâm thơ
một thủ,
Ta cùng bóng liễn
nguyệt ba người.
(Thuật hứng
VI)
Cùng một thi đề thế nhưng ở hai câu
thơ của Hồ Xuân Hương tâm thế con người vũ trụ vẫn có những nét khác biệt. Nếu
như trong thơ Lí Bạch, Nguyễn Trãi, trăng là bạn tri âm thì trong Tự tình
trăng lại có một sự tương đồng về thân phận. Vầng trăng tròn xưa nay vốn biểu
trưng cho sự đoàn viên, sự tròn vẹn trong tình yêu. Chẳng phải thế mà khi viết
về cuộc chia li giữa Thúy Kiều và Thúc Sinh, Nguyễn Du cũng đã tạo dựng hình ảnh
vầng trăng xẻ nửa như hàm chứa một sự dự báo:
Vầng trăng ai xẻ làm
đôi
Nửa in gối chiếc, nửa
soi dặm đường
Vầng trăng trong thơ nữ sĩ là vầng
trăng đã xế bóng, đã sắp tàn nhưng trớ trêu thay vầng trăng ấy lại là vầng trăng
khuyết như một biểu trưng cho sự lận đận trong tình duyên của nữ sĩ
Nếu bài thơ chỉ dừng lại, ở những tiếng
thở dài cho thân phận hẩm hiu thì ắt hẳn chưa phải là Hồ Xuân Hương. Từ trong
nghịch cảnh, thơ Hồ Xuân Hương vẫn bừng lên một sức sống mãnh liệt. Những câu
thơ dưới đây của nữ sĩ như một kiểu mẫu cho mối quan hệ hữu cơ giữa ngoại cảnh
và tâm cảnh.
Xiên ngang mặt đất
rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá
mấy hòn
Hai câu thơ được xuyên thấm bởi "cái
nhìn vũ trụ". Hai câu thơ thể hiện sự tương ứng tương cảm giữa tâm trạng
của chủ thể trữ tình và thiên nhiên ngoại giới. Rêu từng đám, đá mấy hòn, những
sự vật nhỏ bé như ngầm biểu trưng cho cái nhìn về thân phận. Thế nhưng những sự
vật nhỏ bé ấy đâu chịu để mình bị khuất lấp trước sự biến thiên, tuần hoàn của
Tạo hóa, mà lúc nào chúng cũng động đậy, muốn vươn lên mạnh mẽ từ sức sống nội
tại của bản thân chúng. Thế nên ở đây câu thơ không chỉ tả cảnh mà chủ yếu là để
"minh họa" cho bức tranh tâm trạng của con người. Nữ sĩ vẫn ý thức được
thân phận của người phụ nữ dù có nhỏ bé nhưng vẫn ngời lên một sức sống mãnh liệt,
một khát khao hạnh phúc đời thường nhưng cũng không kém phần cháy bỏng. Những
"xiên ngang", "đâm toạc" đã dựng đứng câu thơ lên và tạc vào
văn chương trung đại những nét khắc thật sâu tiếng nói khẳng định khát vọng sống
mãnh liệt, khát vọng khẳng định mình của nữ thi sĩ họ Hồ.
Bi kịch trong thơ Hồ Xuân Hương, có
lẽ đau đớn nhất vẫn là bi kịch của sự tự ý thức. Giá như Xuân Hương cũng như biết
bao thân phận người phụ nữ khác bị khuất lấp trước sự lừa phỉnh của những "tam
tòng tứ đức" mà phục tùng tuyệt đối trước những hằng số mà thời đại đã
ban phát cho họ thì có lẽ Hồ Xuân Hương sẽ bớt đau đớn hơn. Đằng này hơn ai hết,
bà ý thức trọn vẹn những bất công mà xã hội đã dành riêng cho phận đàn bà. Thế
nên hai câu thơ cuối bật lên một sự ý thức về thân phận, về cuộc đời, về tuổi
xuân trong "cái nhìn vũ trụ": đối sánh sự hữu hạn của đời người
và sự trường cửu của đất trời
Ngán nỗi xuân đi xuân
lại lại
Mảnh tình san sẻ tí
con con
Trong câu thơ đầu của hai câu kết có
hai chữ "Xuân", chữ "Xuân" thứ nhất nên hiểu
là tuổi xuân, chữ "Xuân" thứ hai nên hiểu là mùa xuân. Vậy nên
trong nội bộ câu thơ đã tạo nên một sự đối sánh: "Xuân đi" –
"xuân lại". Tuổi xuân của con người một đi không bao giờ trở lại
trong khi mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn miên viễn trong vòng xoay : Xuân
– Hạ - Thu – Đông. Cuộc đời con người hữu hạn mà thời gian của đất trời thì vô
hạn. Thời gian của một đời người, một kiếp người như Đỗ Phủ từng nói: "Nhân
sinh thất thập cổ lai hy" -
Xưa nay con người bảy mươi tuổi đã là hiếm. Trong Cung oán ngâm khúc,
Nguyễn Gia Thiều cũng đã từng suy tư trước sự hữu hạn của đời người:
Trăm năm nào có gì đâu,
Chẳng qua một đám cỏ
khâu, xanh rì.
Sánh với sự trường cửu của vũ trụ thì
đời người thật ngắn ngủi biết bao. Thời gian vốn
dĩ là một thế lực nghịch đối với tuổi trẻ và hạnh phúc lứa đôi. Thời gian qua đi đồng nghĩa với tuổi trẻ cũng
phôi pha theo tháng ngày. Từ xa xưa con người đã ý thức được điều này. Khuất
Nguyên, người nước Sở thời Chiến Quốc, nhà thơ vĩ đại đầu tiên trong văn học sử
Trung Quốc đã từng cảm khái trước bước đi của thời gian:
Cốt dư nhược tương
bất cập hề,
Khủng niên tuế chi
bất ngô dữ.
Triệu khiên tì chi
Mộc lan hề,
Tịch lãm châu chi túc
mụ.
Nhật nguyệt hốt kỳ
bất yêm hề,
(Sợ chẳng kịp ta càng mê mải/ Tuổi
xanh nào có đợi gì ai./ Mộc lan sớm cắt trên đồi,/ đông thanh chiều hái bên ngoài
bến sông./ Ngày tháng vút đi không trở lại/ Vừa xuân qua đã lại thu sang - Ly Tao -
Khuất Nguyên)
Thời hiện đại, Xuân
Diệu còn đang sống ở thời gian tuổi thanh xuân mà đã phấp phỏng nỗi lo sẽ già đi
theo năm tháng:
Mau
lên chứ vội vàng lên với chứ,
Em
em ơi tình non sắp già rồi.
(Giục giã -Xuân Diệu
)
Cùng chung nỗi buồn kim cổ, cùng đa
mang một nỗi suy tư trước sự vần xoay vô tình của đất trời Xuân Hương càng chua
chát hơn khi ứng chiếu sự vô tình của tự nhiên trước thân phận riêng tư của bản
thân mình:
Mảnh tình san sẻ tí
con con
Sống kiếp chồng chung "Chém
cha cái kiếp lấy chồng chung – Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng" Hồ Xuân
Hương hơn ai hết ý thức được bản chất thực của cuộc hôn nhân này. Tình yêu thực
sự cho nó vốn đã nhạt nhòa đằng này còn bị "san sẻ" để chỉ còn
"tí con con" như một sự mỉa mai chua chát cho phận hẩm duyên ôi của
cuộc đời nữ sĩ họ Hồ.
Nói tóm lại, mặc dầu có những
"biến tấu", phá cách trong quan niệm nghệ thuật, điều làm nên sự mới
mẻ thanh tân trong thế giới nghệ thuật thơ Nôm Hồ Xuân Hương, thế nhưng quan niệm
nghệ thuật truyền thống, quan niệm nghệ thuật về con người vũ trụ, luôn là một
hằng số lớn trong văn chương trung đại vẫn có những ảnh hưởng đến các sáng tác
của Hồ Xuân Hương. Tuy nhiên cũng cần nói thêm quan niệm này trong các sáng tác
của bà đã bớt dần dấu ấn của triết học mà nó gắn chặt với những tâm trạng cụ thể,
cảnh huống cụ thể trong cuộc đời bà và cũng vì lẽ đó nó gần gũi, tự nhiên và dễ
đi vào lòng công chúng bình dân, nơi lưu giữ trọn vẹn những sáng tác của Hồ Xuân
Hương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI