Sổ tay Thơ
HAI NỬA VẦNG TRĂNG
Tình cờ anh gặp lại vầng trăng
Một nửa vầng trăng thôi, một nửa
Trăng vẫn đấy mà em xa quá
Nơi cuối trời em có ngóng trăng lên.
Nắng tắt đã lâu rồi, trăng thức dậy dịu êm
Trăng đầu tháng có lần em ví
Chữ D hoa như vầng trăng xẻ nửa
Tên anh như nửa trăng mờ tỏ
Ai bỏ quên lặng lẽ sáng bên trời.
Ơi vầng trăng theo con nước đầy vơi
Trăng say đắm dào trên cỏ ướt
Trăng đầu tháng như đời anh chẳng thể nào
khác được
Trăng cuối tháng như đời anh hao khuyết
Em đã khóc
Trăng từng giọt tan vào anh mặn chát
Em đã khóc
Nhưng làm sao tới được
Bến bờ anh tim dội sóng không cùng
Đến bây giờ trăng vẫn cứ còn xanh
Cứ một nửa như đời anh, một nửa
Nhưng trăng sẽ tròn đầy, trăng sẽ…
Trăng viên mãn cuối trời đêm đêm em có nhớ
Mặt trăng từng khuất nửa ở trong nhau.
8.1981
Hoàng Hữu
MỘT BÀI THƠ ÁM ẢNH
Đây là bài thơ đạt giải B Cuộc thi thơ
năm 1981 – 1982 của Tuần báo Văn Nghệ. Đọc bài thơ, mặc dù còn nhiều chỗ chưa
thể hiểu ngay được, nhưng nỗi xót xa của hai nửa vầng trăng chẳng thể nào đến được
sự viên mãn cũng như linh cảm về cuộc đời “một nửa” của nhân vật trữ tình
cứ luôn ám ảnh trong tâm trí, buộc tôi phải đi tìm hiểu sự thật suốt nhiều năm
qua. Và lần theo những nguồn tư liệu tôi đã biết được nhà thơ tên thật là Nguyễn
Hữu Dũng (một chữ D hoa – tên anh). Anh là họa sĩ. Khi đã có vợ con đề huề, tình
cờ anh gặp một nữ đồng nghiệp dịu dàng, xinh đẹp cũng có tên bắt đầu bằng chữ D
hoa (tên em) thì mối tình không cưỡng lại được bỗng dưng bùng cháy trong lòng làm
anh cứ mất ăn mất ngủ. Mối tình ấy chủ yếu là đơn phương nên nó nung nấu những
khát vọng được đền đáp một cách mãnh liệt và hết sức trong sáng. Bản thân nhà
thơ lại bị bệnh tim nên cuộc đời ngắn ngủi chỉ có “một nửa”, nếu được yêu
lại chắc cũng không thể đến với nhau “viên mãn” được. Như vậy ý tưởng của
bài thơ là nói về mối tình dang dở của hai nửa vầng trăng (ẩn dụ bằng chữ D
hoa) cùng khát vọng tình yêu vượt lên trên hoàn cảnh và bệnh tật.
Khổ thơ đầu tiên nói về “vầng trăng – một nửa” tượng hình thành
chữ D hoa (tên em). Nhưng “Trăng vẫn đấy mà em xa quá” đã xác định mối tình
đơn phương của nhân vật trữ tình. Loại tình cảm này chỉ có cho mà không mong được
nhận, không giống như mối tình “mây – gió” trong thơ Xuân Diệu: “Mây
chừng ấy đó, gió bao nhiêu” (Anh yêu em chừng ấy còn em yêu anh được bao
nhiêu*). Vì thế mà khát khao được đền đáp trở nên tha thiết, cháy bỏng hơn bao
giờ hết. Nhà thơ hỏi trong sự tưởng tượng người yêu có hay “ngóng” trăng
say đắm như mình: “Nơi cuối trời em có ngóng trăng lên” – Mượn trăng để
thổ lộ lòng mình là cách nói kín đáo tế nhị giống với những cách nói của cha ông
ta trong kho tàng ca dao dân ca.
Khổ thơ thứ hai cho ta biết lý do của sự hình
thành thi tứ: “Trăng đầu tháng có lần em ví/ Chữ D hoa như vầng
trăng xẻ nửa/ Tên anh như nửa trăng mờ tỏ/ Ai bỏ quên lặng lẽ sáng
bên trời”. Một sự liên tưởng rất cụ thể và thú vị của các họa sĩ vốn
rất nhạy cảm với những hình khối mang tính biểu tượng như thế. Một nửa vầng trăng
cũng đã từng xuất hiện trong thơ Nguyễn Du (Vầng trăng ai xẻ làm đôi – Truyện
Kiều) hay gần đây, trong ca từ của nhạc sĩ An Thuyên (Cắt nửa vầng
trăng… Ca dao em và tôi), nhưng để nói về một cái tên người cụ
thể thì có lẽ đây là một sáng tạo đầu tiên và duy nhất trong kho tàng thi ca nhân
loại.
Nếu hai khổ thơ đầu ít nhiều còn nói sự việc (Tình cờ anh gặp lại vầng
trăng; Nắng tắt đã lâu rồi trăng thức dậy dịu êm) hoặc giải thích lý
do (Trăng đầu tháng có lần em ví…), thì đến các khổ thơ tiếp theo
hoàn toàn chỉ còn tình cảm tha thiết, ám gợi:
Ơi vầng trăng theo con nước đầy vơi
Trăng say đắm dào lên cỏ ướt
Câu thơ thứ nhất vận dụng những kiến thức khoa học về mối liên hệ giữa
thủy triều lên xuống và quỹ đạo của vầng trăng, nhưng chỉ cần một chữ “theo”
đã làm cho vầng trăng hóa nên sống động và nặng tình. Câu thơ thứ hai thật là tài
hoa của sự kết hợp giữa ngôn từ và hình khối: “Trăng say đắm dào lên cỏ ướt”.
Từ “theo” đến “say đắm” đã là cả một bước tiến dài về mặt tình cảm
và hình tượng. Các chữ “dào lên cỏ ướt” rất tạo hình. Động từ “dào”
ở đây thật đắt. Đã từng có những cách đặc tả ánh trăng rất hay như ánh trăng “nhễ
nhại” (Nam Cao) hay ánh trăng “dàn dụa” (Dương Kiều Minh), nhưng chưa
thấy ai sử dụng động từ chính xác và đắc địa như tác giả bài thơ này - “Trăng
say đắm dào lên cỏ ướt” đúng là một sáng tạo độc đáo của riêng Hoàng Hữu
- Ở bên trên đã có “con nước” thì
ở bên dưới “cỏ ướt” là lẽ tất nhiên: Từng đợt sóng trăng trào lên bờ cỏ ướt
nước cũng là ướt ánh trăng lóng lánh mê ly. Trăng đẹp như thế, cuộc sống đẹp như
thế mà nhà thơ đã như linh cảm thấy mình sắp sửa phải ra đi mãi mãi vì quỹ thời
gian (theo dự báo của bác sĩ điều trị) đã sắp cạn kiệt rồi! Những câu thơ giống
như những lời nói “gở” nhưng không “gở” chút nào vì nhà thơ đã biết
trước tất cả để khẳng định như đinh đóng cột:
Trăng đầu tháng như đời anh chẳng
thể nào khác được
Trăng cuối tháng như đời anh hao
khuyết
Em đã khóc
Trăng từng giọt tan vào anh mặn
chát
Em đã khóc
Không chỉ “Em đã khóc” mà tất cả những bạn bè của nhà thơ, những
người đọc thơ đều rưng rưng trong tâm hồn trước một con người tài hoa bạc mệnh!
Hai câu thơ tiếp theo như cứa vào lòng người đọc: Một người bị bệnh tim đã sống
hết mình cho tình yêu, cho nghệ thuật, trái tim của anh đã “phát sóng” hết
công suất: “Nhưng làm sao tới được/ Bến bờ anh tim dội sóng không cùng”.
Đó là một cuộc sống đích thực dám đi đến cùng trong tình yêu và niềm đam mê của
mình - Nó làm cho những người đang sống khỏe mạnh không khỏi có sự chạnh lòng và
tự xem lại bản thân.
Ba câu thơ tiếp theo như đúc kết lại
một cách đầy xót xa nhưng vẫn lấp lánh niềm tin: “Đến bây giờ trăng vẫn cứ còn
xanh/ Cứ một nửa như đời anh, một nửa/ Nhưng trăng sẽ tròn
đầy, trăng sẽ…”. Sự đay đi đay lại “Một nửa vầng trăng thôi, một
nửa” rồi lại xác quyết: “Cứ một nửa
như đời anh một nửa”, đúng như Hữu Thỉnh cảm nhận:“nó cứ như bào như xát
vào gan ruột người ta. Và đấy là thành công, là hiệu quả nghệ thuật của bài thơ…Cái
dở dang vĩnh viễn của Hoàng Hữu đánh thức cái dở dang của mọi kiếp người”**
Câu thơ cuối cùng không nói hết được, như hụt hơi, nấc nghẹn, còn biết bao điều
âm vang trong dấu ba chấm (…) để cho người đọc tự suy đoán lấy bằng sự trải
nghiệm của riêng mình.
Khổ thơ kết bài giống lời dặn dò, trăng trối giàu tính chiêm nghiệm:
Trăng viên mãn cuối trời đêm đêm
em có nhớ
Mặt trăng từng khuất nửa ở trong
nhau
Xuất phát từ sự quan sát tinh tế: Một nửa trăng hình chữ D hoa, nhìn kỹ, ta vẫn có thể thấy được một nửa
trăng phía bên kia mờ mờ, khớp với nhau để tạo thành một vầng trăng tròn đầy,
viên mãn. Nhà thơ hỏi em, dặn em nhưng cũng là nói với tất cả chúng ta, hay ngược
lại, đọc hai câu thơ này, ta cảm thấy như chính mình đang nói với một ai đó những
lời tha thiết chân thành nhất. Đó là sự kỳ lạ của thơ, hay nói rộng hơn là của
nghệ thuật nói chung. Vì vậy, đối tượng trữ tình được gọi là “em” trong
bài thơ này không nên giới hạn vào chỉ một cô gái có tên bắt đầu bằng một chữ D
hoa nào đó. Đấy chỉ là cái cớ cho ý tưởng thơ phát triển. Sự chiêm nghiệm “Mặt
trăng từng khuất nửa ở trong nhau” vẫn thường phổ biến trong cõi nhân sinh,
có trong tất cả mọi người và nó mang tính nhân loại phổ quát. Đó cũng là điều mà
chị Nguyễn Thị Minh, vợ của cố họa sĩ - nhà thơ Hoàng Hữu, sau 31 năm hờn giận
chồng vì cô gái có chữ D hoa trong bài thơ, cuối cùng cũng đã nhận ra rằng: “Sự
“tình cờ” bởi cái tên cúng cơm do cha mẹ đặt: Nguyễn Hữu Dũng, cái tên bắt đầu
bằng chữ D hoa đã khiến anh viết thành công bài thơ gửi tặng cho đời. Vượt nỗi đau
số phận nghiệt ngã của mình chắt lọc ra hai nửa vầng trăng, nửa “tròn đầy” nửa
“viên mãn” vững tin ở ngày mai tốt đẹp”***
Quy Nhơn, 12. 2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI