Ngày 8 Tết Mậu
Tuất (23.2.2018), Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, UBMTTQ Việt Nam tỉnh Đắk Lắk tổ chức
cuộc gặp đầu xuân với đại diện văn nghệ sĩ, trí thức, báo giới. Tôi được phép
lên nói vài lời. Dù có 8 năm làm Phó Ban vận động và 11 năm làm Chủ tịch Hội Văn
nghệ nhưng tôi lại nói về báo chí thời ở rừng.
Nhìn khắp hội
trường, tôi nói vui: “Còn có 3 mống” làm nhân chứng vật chứng. Đó là tôi,
Nguyễn Trúc, Ngô Minh Kha. Sau 43 năm thống nhất đất nước, còn gặp nhau là may
mắn lắm rồi. Các bậc đàn anh có người không còn, có người đau yếu không đến dự,
tôi chỉ điểm lại một số mà tôi còn nhớ.
Các đồng chí
không đi tập kết ra Bắc năm 1954 được cài cắm ở lại, sau này là lãnh đạo tỉnh
qua từng giai đoạn đều có viết những bài tuyên truyền, cổ động hoặc dịch tiếng
Kinh ra tiếng dân tộc và dịch ca dao, dân ca của đồng bào dân tộc thiểu số ra
tiếng Kinh. Các đồng chí gắn bó nhiều năm ở Đắk Lắk, hiểu phong tục tập quán
biết nhiều ngôn ngữ bản địa, điển hình là các đồng chí Nguyễn Xuân Nguyên, Huỳnh
Văn Cần, Tô Tấn Tài (Ama H’Oanh), Ama Thương (Siu Pui)… Đến nay không còn nhớ
ai là người dịch, dịch bài nào trong hoàn cảnh cụ thể nào, chỉ biết nó hay, nó
đẹp:
Uống chén nước có tấm
lòng của Đảng
Ăn bát cơm có tình
nghĩa Bác Hồ
(Dân
ca Êđê)
Bác Hồ chỉ cho dân
Trồng lúa lên xanh tốt
Trồng kê lên to bông
Lập buôn sang làng gần
(Dân
ca M’Nông)
Hỡi con chim Pơrơtốc
mày xinh đẹp lắm
Nhưng đẹp sao bằng mắt
Bác Hồ
Mắt Bác Hồ nhìn sáng
bốn ông sao
Dẫn dắt đồng bào kết
đoàn đánh Pháp
(Dân
ca Ja Rai)
Cùng với việc
dịch dân ca, các đồng chí lãnh đạo còn làm thơ, dù để tuyên truyền nhưng vô
cùng xúc động:
Trong chiến đấu, người
cuối cùng gục ngã
Còn mình ta trận địa
giữ hay lùi
Quyết đứng vững quyết
không rời vị trí
Trước quân thù, một
bước chẳng hề lui
(Ra
đi – Nguyễn Xuân Nguyên)
Và đây là vẻ
đẹp của đêm hậu cứ
Trăng lên đầu cành
trăng đậu
Màn sương trắng rắc le
the
Loáng sáng luồn qua khe
lá
Vờn đùa đầu võng đung
đưa
Gió rét, mưa đông lắc
rắc
Rẫy ai bếp lửa rực hồng
(Tiếng
rừng đêm đông – Ama H’Oanh)
Vượt lên việc
tuyên truyền cổ động, trong các anh đã tràn ngập tâm hồn thi sĩ, thơ mới có
tình như thế.
Ngoài các đồng
chí lãnh đạo, còn nhiều người tham gia làm báo ở trong rừng, tôi không nhớ hết,
chỉ biết nhớ ai thì viết về người đó.
Nhà báo Hoàng
Thi quê ở Tuy Hoà, Phú Yên đã hy sinh vào Tết Mậu Thân – 1968 trong đợt Tổng
tiến công nổi dậy.
Năm 1996 nhân
kỷ niệm 50 năm toàn quốc kháng chiến, Quân khu V đặt Đài tưởng niệm văn nghệ
sĩ, báo chí khu V tại Bảo tàng Quân khu. Phiến đá đỏ nặng hơn 10 tấn nguyên
khối từ Tây Sơn – Bình Định được tạc hình ngọn lửa có ghi danh các liệt sĩ,
trong đó có Hoàng Thi.
Tôi thay mặt
đoàn Đắk Lắk được Trung tướng Phan Hoan – Tư lệnh quân khu V gắn Huy chương
nhưng trong thâm tâm thấy mình chưa xứng đáng bằng nhiều anh chị.
Nhà báo Lâm Quý
– dân tộc Cao Lan, quê ở Vĩnh Phúc – được Thông tấn xã Việt Nam cử vào thường
trú tại Đắk Lắk. Lâm Quý được ưu tiên hơn chúng tôi, do đặc thù là phản ánh,
thông báo tình hình ở chiến trường nên được cơ yếu của Tỉnh uỷ hoặc Tỉnh đội
đánh Moóc-xơ gửi về khu V hoặc Hà Nội, còn chúng tôi viết tay, muốn có bản lưu
thì kê lên giấy than mà viết rồi gửi bằng đường giao liên.
Lâm Quý có tâm
hồn thơ, đi trên cao nguyên Đắk Lắk, thấy đồi xanh uốn lượn như sóng biển nhấp
nhô nên có bài thơ Đồng cỏ - biển xanh với mơ ước sự phồn vinh của Đắk Lắk sau
giải phóng.
Hoạ sĩ Phan Thế
Cường quê ở Nam Định, là hoạ sĩ duy nhất ở chiến trường Đắk Lắk, vẽ tranh để
tuyên truyền, cổ động nhưng việc chính lại là phát rẫy để có ăn. Có lần từ
Krông Bông vượt đường 21 (nay là 26) mất mấy ngày đường chỉ để chụp ảnh Đại hội
Đảng bộ tỉnh tại Đleiya. Chính Phan Thế Cường chụp ảnh Lâm Quý và Nguyễn Trúc
bên dòng sông Sêrêpốk mà đến nay Nguyễn Trúc còn giữ được, coi như báu vật.
Có chuyện vui
về Phan Thế Cường, bây giờ mới kể, chàng hoạ sĩ vẽ thì ít, làm rẫy và chống
biệt kích thì nhiều nên nhớ vẽ. Chàng lấy giấy và vải đủ 7 màu lợp lên mũ nan
vừa để đội đầu, vừa để ngồi lên khi nghỉ ngơi.
Sau Hiệp định
Pari 1973, vùng giải phóng đã lớn mạnh nên không sợ bị địch càn quét. Anh Châu
Khắc Chương cử Phan Thế Cường treo cờ Mặt trận giải phóng miền Nam. Đáng lẽ
phải treo nửa đỏ ở trên, nửa xanh ở dưới nhưng Cường làm ngược lại. Anh Chương
góp ý thì Cường cãi ngang, cho là mình đúng, còn viện dẫn câu thơ Tố Hữu:
Lá cờ nửa đỏ, nửa xanh
Màu đỏ của đất, màu
xanh của trời
Ngôi sao chân lý của
đời
Việt Nam – vàng của
lòng người hôm nay.
Thì phải treo
trời xanh ở trên, đất đỏ ở dưới (tôi cũng nghĩ Phan Thế Cường biết sai nhưng
cãi cho vui).
Gần cơ quan
Giáo dục H9 của tôi có vệt bom B52 tạo thành nhiều giếng nước khi mưa đến. Một
lần đến thăm tôi, Cường vẽ khu giếng ấy, tôi có bài thơ Giếng giữa rừng, sau
này in vào tập Nhân chứng một thời cùng Trúc Hoài.
Cả khu giếng xếp hàng
đều tăm tắp
Rất đúng cự ly, rất
đúng đội hình…
Rồi khu giếng được thu
vào bức vẽ
Với chú thích đề:
Giếng
giữa rừng – Vệt bom B52!
Một người ít được
nhắc đến trên cương vị làm báo là Ama Pheng (Ama Bhiăng) vì anh viết không
nhiều, chủ yếu là dịch từ tiếng Kinh ra tiếng Êđê. Sau này anh hoạt động công
tác đoàn thể, làm Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc của tỉnh. Nhưng chính Ama
Pheng là người được cử đi học làm báo tại Tây Ninh do Trung ương cục miền Nam
tổ chức.
Nguyễn Hữu Trí
là Thiếu tá binh địch vận, biết tiếng Pháp nên được khai thác tư liệu cả tù
hàng binh người Việt và người nước ngoài, giúp cho Tỉnh uỷ nắm rõ hơn tình hình
của địch. Sau giải phóng làm Giám đốc Sở Khoa học Công nghệ, xuất bản tập Hồi
ức mùa xuân, có giá trị về tư liệu lịch sử và văn học.
Ngô Minh Kha có
khả năng viết chữ ngược rất đẹp nên được giao viết để in litô. Chính Ngô Minh
Kha phải trực tiếp đi xin tấm bia mộ từ Quảng Nhiêu (Cư M’gar) về Krông Bông
mài nhẵn mặt lưng của bia để viết.
Nguyễn Trúc còn
được Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ cấp giấy phép vào HC38 – địa điểm trao trả tù binh
để khai thác tài liệu. Ít người biết Nguyễn Trúc còn giữ trung liên đánh địch
càn vào đồi Điện Ảnh (thực ra là tổ chiếu phim). Nguyễn Trúc bị viên đạn sượt
qua ngực để lại vết sẹo dài, may chỉ bị phần mềm. Anh cũng là người kéo cờ giải
phóng ở Trường tỉnh hạt (nay là trường Lê Thị Hồng Gấm) mùa xuân Mậu Thân –
1968.
Sau Mậu Thân ta
bị tổn thất, địch thọc sâu, càn quét vào căn cứ nhiều đợt, tới đầu năm 1969
chưa dứt.
Đây là hồi tưởng về Tết của cơ quan văn hoá ngày ấy, cụ thể là đoàn văn
công đón Tết:
Em có nhớ vùng buôn
Chàm lửa cháy
Giặc đổ quân vây quét
mấy ngày
Tết đến rồi mà lán
thành tro bụi
Đón giao thừa với củ
sắn trên tay.
Hình ảnh các cô
văn công xinh đẹp: Nguyệt, Tâm, Thu… lại hiện về và tôi ghi lại niềm khát vọng
qua đầu đề bài thơ là: Mùa xuân về đậu trên môi em.
Thời gian qua
đi mấy chục năm rồi nên nhớ nhớ quên quên, người còn kẻ mất… Còn nhiều người
tham gia làm báo mà không nhớ hết. Những người vượt đường 21 (nay là 26) từ
cánh Nam lên cánh Bắc, từ cánh Đông sang cánh Tây (đường 14), gùi cõng, liên hệ
mua giấy, mực ở đồn điền Rôsi hay cửa khẩu Kỳ Lộ, Phú Yên để in báo, khi có báo
rồi lại mang đến các đơn vị, các buôn làng…
Có một thời để
nhớ như thế.
Sau này Nguyễn
Trúc có tiểu thuyết Từ sông Krông Bông, tôi có nói: Anh đã trải lòng để cảm ơn
cuộc đời, cảm ơn cuộc kháng chiến vĩ đại trên quê hương Đắk Lắk.
Với tôi, văn
với báo chỉ là một, khác nhau ở cách thể hiện. Nhân dịp kỷ niệm 93 năm Ngày Báo
chí cách mạng Việt Nam, tôi ghi lại một số người làm báo thời ở rừng, họ đã
sống và viết bằng sức mạnh của niềm tin chiến thắng.
Tháng
6-2018
Tuyển sinh Y Dược Sóc Trăng
Trả lờiXóaCao đẳng y Dược Tây Ninh tuyển sinh 2018
Tuyển sinh Y Dược Tiền Giang