Thứ Tư, 20 tháng 6, 2018

LÀM BÁO THỜI KHÁNG CHIẾN tác giả HỮU CHỈNH - CHƯ YANG SIN SỐ 310 THÁNG 6 NĂM 2018




Ngày 8 Tết Mậu Tuất (23.2.2018), Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, UBMTTQ Việt Nam tỉnh Đắk Lắk tổ chức cuộc gặp đầu xuân với đại diện văn nghệ sĩ, trí thức, báo giới. Tôi được phép lên nói vài lời. Dù có 8 năm làm Phó Ban vận động và 11 năm làm Chủ tịch Hội Văn nghệ nhưng tôi lại nói về báo chí thời ở rừng.
Nhìn khắp hội trường, tôi nói vui: “Còn có 3 mống” làm nhân chứng vật chứng. Đó là tôi, Nguyễn Trúc, Ngô Minh Kha. Sau 43 năm thống nhất đất nước, còn gặp nhau là may mắn lắm rồi. Các bậc đàn anh có người không còn, có người đau yếu không đến dự, tôi chỉ điểm lại một số mà tôi còn nhớ.
Các đồng chí không đi tập kết ra Bắc năm 1954 được cài cắm ở lại, sau này là lãnh đạo tỉnh qua từng giai đoạn đều có viết những bài tuyên truyền, cổ động hoặc dịch tiếng Kinh ra tiếng dân tộc và dịch ca dao, dân ca của đồng bào dân tộc thiểu số ra tiếng Kinh. Các đồng chí gắn bó nhiều năm ở Đắk Lắk, hiểu phong tục tập quán biết nhiều ngôn ngữ bản địa, điển hình là các đồng chí Nguyễn Xuân Nguyên, Huỳnh Văn Cần, Tô Tấn Tài (Ama H’Oanh), Ama Thương (Siu Pui)… Đến nay không còn nhớ ai là người dịch, dịch bài nào trong hoàn cảnh cụ thể nào, chỉ biết nó hay, nó đẹp:
                         Uống chén nước có tấm lòng của Đảng
                         Ăn bát cơm có tình nghĩa Bác Hồ
                                                                     (Dân ca Êđê)
                         Bác Hồ chỉ cho dân
                         Trồng lúa lên xanh tốt
                         Trồng kê lên to bông
                         Lập buôn sang làng gần
                                                                     (Dân ca M’Nông)
                         Hỡi con chim Pơrơtốc mày xinh đẹp lắm
                         Nhưng đẹp sao bằng mắt Bác Hồ
                         Mắt Bác Hồ nhìn sáng bốn ông sao
                         Dẫn dắt đồng bào kết đoàn đánh Pháp
                                                                     (Dân ca Ja Rai)
Cùng với việc dịch dân ca, các đồng chí lãnh đạo còn làm thơ, dù để tuyên truyền nhưng vô cùng xúc động:
                         Trong chiến đấu, người cuối cùng gục ngã
                         Còn mình ta trận địa giữ hay lùi
                         Quyết đứng vững quyết không rời vị trí
                         Trước quân thù, một bước chẳng hề lui
                                                                     (Ra đi – Nguyễn Xuân Nguyên)
Và đây là vẻ đẹp của đêm hậu cứ
                         Trăng lên đầu cành trăng đậu
                         Màn sương trắng rắc le the
                         Loáng sáng luồn qua khe lá
                         Vờn đùa đầu võng đung đưa
                         Gió rét, mưa đông lắc rắc
                         Rẫy ai bếp lửa rực hồng
                                                         (Tiếng rừng đêm đông – Ama H’Oanh)
Vượt lên việc tuyên truyền cổ động, trong các anh đã tràn ngập tâm hồn thi sĩ, thơ mới có tình như thế.
Ngoài các đồng chí lãnh đạo, còn nhiều người tham gia làm báo ở trong rừng, tôi không nhớ hết, chỉ biết nhớ ai thì viết về người đó.
Nhà báo Hoàng Thi quê ở Tuy Hoà, Phú Yên đã hy sinh vào Tết Mậu Thân – 1968 trong đợt Tổng tiến công nổi dậy.
Năm 1996 nhân kỷ niệm 50 năm toàn quốc kháng chiến, Quân khu V đặt Đài tưởng niệm văn nghệ sĩ, báo chí khu V tại Bảo tàng Quân khu. Phiến đá đỏ nặng hơn 10 tấn nguyên khối từ Tây Sơn – Bình Định được tạc hình ngọn lửa có ghi danh các liệt sĩ, trong đó có Hoàng Thi.
Tôi thay mặt đoàn Đắk Lắk được Trung tướng Phan Hoan – Tư lệnh quân khu V gắn Huy chương nhưng trong thâm tâm thấy mình chưa xứng đáng bằng nhiều anh chị.
Nhà báo Lâm Quý – dân tộc Cao Lan, quê ở Vĩnh Phúc – được Thông tấn xã Việt Nam cử vào thường trú tại Đắk Lắk. Lâm Quý được ưu tiên hơn chúng tôi, do đặc thù là phản ánh, thông báo tình hình ở chiến trường nên được cơ yếu của Tỉnh uỷ hoặc Tỉnh đội đánh Moóc-xơ gửi về khu V hoặc Hà Nội, còn chúng tôi viết tay, muốn có bản lưu thì kê lên giấy than mà viết rồi gửi bằng đường giao liên.
Lâm Quý có tâm hồn thơ, đi trên cao nguyên Đắk Lắk, thấy đồi xanh uốn lượn như sóng biển nhấp nhô nên có bài thơ Đồng cỏ - biển xanh với mơ ước sự phồn vinh của Đắk Lắk sau giải phóng.
Hoạ sĩ Phan Thế Cường quê ở Nam Định, là hoạ sĩ duy nhất ở chiến trường Đắk Lắk, vẽ tranh để tuyên truyền, cổ động nhưng việc chính lại là phát rẫy để có ăn. Có lần từ Krông Bông vượt đường 21 (nay là 26) mất mấy ngày đường chỉ để chụp ảnh Đại hội Đảng bộ tỉnh tại Đleiya. Chính Phan Thế Cường chụp ảnh Lâm Quý và Nguyễn Trúc bên dòng sông Sêrêpốk mà đến nay Nguyễn Trúc còn giữ được, coi như báu vật.
Có chuyện vui về Phan Thế Cường, bây giờ mới kể, chàng hoạ sĩ vẽ thì ít, làm rẫy và chống biệt kích thì nhiều nên nhớ vẽ. Chàng lấy giấy và vải đủ 7 màu lợp lên mũ nan vừa để đội đầu, vừa để ngồi lên khi nghỉ ngơi.
Sau Hiệp định Pari 1973, vùng giải phóng đã lớn mạnh nên không sợ bị địch càn quét. Anh Châu Khắc Chương cử Phan Thế Cường treo cờ Mặt trận giải phóng miền Nam. Đáng lẽ phải treo nửa đỏ ở trên, nửa xanh ở dưới nhưng Cường làm ngược lại. Anh Chương góp ý thì Cường cãi ngang, cho là mình đúng, còn viện dẫn câu thơ Tố Hữu:
                         Lá cờ nửa đỏ, nửa xanh
                         Màu đỏ của đất, màu xanh của trời
                         Ngôi sao chân lý của đời
                         Việt Nam – vàng của lòng người hôm nay.
Thì phải treo trời xanh ở trên, đất đỏ ở dưới (tôi cũng nghĩ Phan Thế Cường biết sai nhưng cãi cho vui).
Gần cơ quan Giáo dục H9 của tôi có vệt bom B52 tạo thành nhiều giếng nước khi mưa đến. Một lần đến thăm tôi, Cường vẽ khu giếng ấy, tôi có bài thơ Giếng giữa rừng, sau này in vào tập Nhân chứng một thời cùng Trúc Hoài.
                         Cả khu giếng xếp hàng đều tăm tắp
                         Rất đúng cự ly, rất đúng đội hình…
                         Rồi khu giếng được thu vào bức vẽ
                         Với chú thích đề:
                                                         Giếng giữa rừng – Vệt bom B52!
Một người ít được nhắc đến trên cương vị làm báo là Ama Pheng (Ama Bhiăng) vì anh viết không nhiều, chủ yếu là dịch từ tiếng Kinh ra tiếng Êđê. Sau này anh hoạt động công tác đoàn thể, làm Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc của tỉnh. Nhưng chính Ama Pheng là người được cử đi học làm báo tại Tây Ninh do Trung ương cục miền Nam tổ chức.
Nguyễn Hữu Trí là Thiếu tá binh địch vận, biết tiếng Pháp nên được khai thác tư liệu cả tù hàng binh người Việt và người nước ngoài, giúp cho Tỉnh uỷ nắm rõ hơn tình hình của địch. Sau giải phóng làm Giám đốc Sở Khoa học Công nghệ, xuất bản tập Hồi ức mùa xuân, có giá trị về tư liệu lịch sử và văn học.
Ngô Minh Kha có khả năng viết chữ ngược rất đẹp nên được giao viết để in litô. Chính Ngô Minh Kha phải trực tiếp đi xin tấm bia mộ từ Quảng Nhiêu (Cư M’gar) về Krông Bông mài nhẵn mặt lưng của bia để viết.
Nguyễn Trúc còn được Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ cấp giấy phép vào HC38 – địa điểm trao trả tù binh để khai thác tài liệu. Ít người biết Nguyễn Trúc còn giữ trung liên đánh địch càn vào đồi Điện Ảnh (thực ra là tổ chiếu phim). Nguyễn Trúc bị viên đạn sượt qua ngực để lại vết sẹo dài, may chỉ bị phần mềm. Anh cũng là người kéo cờ giải phóng ở Trường tỉnh hạt (nay là trường Lê Thị Hồng Gấm) mùa xuân Mậu Thân – 1968.
Sau Mậu Thân ta bị tổn thất, địch thọc sâu, càn quét vào căn cứ nhiều đợt, tới đầu năm 1969 chưa dứt.
Đây là hồi tưởng về Tết của cơ quan văn hoá ngày ấy, cụ thể là đoàn văn công đón Tết:
                         Em có nhớ vùng buôn Chàm lửa cháy
                         Giặc đổ quân vây quét mấy ngày
                         Tết đến rồi mà lán thành tro bụi
                         Đón giao thừa với củ sắn trên tay.
Hình ảnh các cô văn công xinh đẹp: Nguyệt, Tâm, Thu… lại hiện về và tôi ghi lại niềm khát vọng qua đầu đề bài thơ là: Mùa xuân về đậu trên môi em.
Thời gian qua đi mấy chục năm rồi nên nhớ nhớ quên quên, người còn kẻ mất… Còn nhiều người tham gia làm báo mà không nhớ hết. Những người vượt đường 21 (nay là 26) từ cánh Nam lên cánh Bắc, từ cánh Đông sang cánh Tây (đường 14), gùi cõng, liên hệ mua giấy, mực ở đồn điền Rôsi hay cửa khẩu Kỳ Lộ, Phú Yên để in báo, khi có báo rồi lại mang đến các đơn vị, các buôn làng…
Có một thời để nhớ như thế.
Sau này Nguyễn Trúc có tiểu thuyết Từ sông Krông Bông, tôi có nói: Anh đã trải lòng để cảm ơn cuộc đời, cảm ơn cuộc kháng chiến vĩ đại trên quê hương Đắk Lắk.
Với tôi, văn với báo chỉ là một, khác nhau ở cách thể hiện. Nhân dịp kỷ niệm 93 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, tôi ghi lại một số người làm báo thời ở rừng, họ đã sống và viết bằng sức mạnh của niềm tin chiến thắng.
                                                                                       Tháng 6-2018



1 nhận xét:

NHẬN XÉT MỚI