(Ngữ văn 12 – tập II)
Nhân vật văn học là kết quả của quá trình hư cấu sáng
tạo của nhà văn. Nhà văn muốn thông qua nhân vật để gửi gắm những thông điệp của
mình, hoặc những chiêm nghiệm trước cuộc sống. Vậy nên mỗi nhân vật mà nhà văn sản
sinh
ra không thể là hình chiếu một trăm phần trăm nguyên mẫu từ cuộc sống mà nó đều
mang tính "quan niệm". Nhân vật bao giờ cũng hiện ra trong cách hình dung, cảm nhận của tác
giả về những vấn đề nhân sinh trong cuộc sống. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn
lúc nào cũng trăn trở "tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi
con người". Thế nên khi xây dựng nhân vật ông luôn có ý thức đặt nhân vật của mình
lên bàn xoay để từ đó từng góc độ, từng khía cạnh của nhân vật tự bộc lộ. Người
đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một
nhân vật như thế.
Người đàn bà xuất hiện lần đầu tiên trong sự chứng kiến
của Phùng, một nhiếp ảnh gia sau khi đã chứng một cảnh đắt trời cho. Nguyễn
Minh Châu miêu tả “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của
đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt
mệt mỏi sau một đên thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Đây là
nhân vật tiêu biểu cho dạng “nhân vật tính cách – số phân”(1) trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu. Bằng một giọng văn lạnh lùng, tác giả đã bằng vài thông tin
ngắn gọn mù mờ: người đàn bà ấy trạc bốn mươi, người miền biển, thân hình cao lớn
thô kệch. Người đàn bà miền biển ấy lại được gọi bằng “thị, ả, mụ” thiếu thiện
cảm.thế nên nhiều người khi đọc đến đây, họ lại muốn “phản biện” Nguyễn Minh Châu
(2). Vì họ cho rằng nhà văn không nên gọi người đàn bà hàng chài như thế. Người
đàn bà này không đáng “bị” gọi như vậy. Phàm những tài năng lớn thường vẫn vượt
qua được cái khó của ngôn từ. Mà hi họ đã vượt qua được cái khó ấy thì ắt hẳn họ
sẽ tiến tới làm chủ ngôn từ. Nam Cao vẫn gọi nhân vật của mình là mụ Lợi
(Lang Rận) rồi lại còn “mụ béo trục, béo tròn, mặt mũi như tổ ong bầu, mắt trắng
môi
thâm”, Kim Lân gọi nhân vật là thị vốn là một cô “vợ nhặt”… mà ta có thấy những
nhân vật ấy bị suy giảm phẩm chât nghệ thuật đâu. Ở đây, Nguyễn Minh Châu không
hề có cái nhìn rẻ rúng nhân vật của mình. Người đàn bà không tên lại được gọi
là “mụ” ấy, sẽ là một trong những mấu chốt tạo nên những tình huống “bừng tỉnh”
trong Phùng và Đẩu sau này. Cái nhìn ban đầu càng thiếu thiện cảm thì phút giây
“ngộ” của nhân vật càng có ý nghĩa, càng sâu sắc.
Trong những chi tiết đầu miêu tả nhân vật người
đàn bà làng chài, tôi chú ý hơn đến chi tiết "Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức
trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Đây là một chi
tiết được tạo dựng để tác giả nhấn mạnh sức cam chịu của người đàn bà trước
những đắng cay tủi hờn do người chồng vũ phu gây ra. Thông thường sau một đêm
thức trắng, mệt mỏi và buồn ngủ sẽ khiến con người ta trở nên cáu gắt. Ấy thế
mà người đàn vẫn chịu đựng những cơn cuồng nộ không có lí do của người chồng vũ
phu trong trạng thái tâm lí ấy. Và cũng bắt đầu từ những chi tiết này. Chiếc bàn xoay từ từ chuyển động, nhân vật
bắt đầu hé lộ những phẩm chất đáng quý.
Khi đã cùng chồng vào bờ, người đàn bà làng chài ấy thừa
biết chuyện gì sẽ sắp xảy ra với mình. Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng một chi tiết giàu
ý nghĩ: "Người
đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một
thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại
buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân". Tại sao người đàn bàn ấy lại phải
nhìn trở lại mặt phá nơi có chiếc thuyền của gia đình bà đang neo đậu. Phải
chăng đó là cái nhìn để thêm một lần xác thực không có đứa con nào của bà trên
chiếc thuyền ấy phải mục kích cảnh cha của chúng hành hạ mẹ chúng. Sau khi đã
chắc chắn, lũ con sẽ không nhìn thấy người đàn bà ấy đã "sửa soạn"
cho mình một tâm thế để hứng chịu trận đòn của ông chồng vũ phu. Bà đã
phải chịu một trận đòn phủ phàng từ chiếc thắt lưng của người chồng độc dữ.
Nhưng người đàn bà ấy vẫn "cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng,
không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn". Tuy nhiên bà
không ngờ thằng Phác đã phát hiện và nó đã chạy sổ đến giật chiếc thắt lưng từ
tay của cha mình. Hậu quả của tình trạng bạo lực trong gia đình cậu
bé Phác là nỗi đau khổ nặng nề của người mẹ. Lúc này người mẹ khổ đau ấy không chỉ bị
hành hạ về thể xác mà còn bị giày vò về tinh thần: "Miệng mếu máo gọi, người đàn bà
ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái
để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một
viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn
bà". Bà luôn nơm
nớp lo sợ con cái bị tổn thương. Dù bà hết sức che chắn (xin chồng đừng đánh mình
trên thuyền, trước mặt con cái) nhưng rồi những đứa con vẫn biết sự thật khiến
bà "vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã". Đứa con - cậu bé Phác
- vì yêu mẹ, thương mẹ mà thành căm ghét bố. Nó xông vào đánh bố để bảo vệ mẹ
và như vậy niềm tin trong trẻo của tuổi thơ đã bị rạn vỡ. Trong những đứa con của bà có lẽ bà
lo cho thằng Phác hơn cả. Trong sự nhạy cảm tuyệt vời của người mẹ, bà biết thằng
Phác sẽ là đứa bị tổn thương nhiều nhất. Bởi vì trong tất cả những đứa con nó
là đứa giống cha nhất. Thế nên không phải ngẫu nhiên mà bà đã để cho con lên ở
với ông ngoại trên rừng vì chỉ có ở trên ấy thằng Phác mới được cách li hoàn
toàn, thằng Phác mới giảm bớt những tổn thương tinh thần chính do cha nó tạo ra để
sau này nó lớn lên một cách bình thường. Nó sẽ không đi lại đoạn đường mà cha
nó đã đi. Chao ôi! Đằng sau cái xù xì ấy là cả một con người dạt dào yêu thương
và thông tuệ.
Trong đoạn
trên tòa án huyện, câu chuyện người đàn bà được lần giở từng trang. Mỗi trang đời của chị
ta là một sự bừng ngộ thấm thía với Phùng và Đẩu. Bằng nghệ thuật phân tích tâm
lí bậc thầy và một trái tim nhạy cảm trước nỗi đau của những mảnh đời bình dị
trong cuộc sống, Nguyễn Minh Châu đã làm một cuộc phản biện quyết liệt để đánh đổ những
định kiến của chính những
nhân vật của mình và với cả cảm nhận ban đầu của người đọc.
Người đàn bà hàng chài không phải là con người chỉ biết
cam chịu và nhẫn nhịn đến mức ngờ nghệch như Đầu và Phùng đã nghĩ mà ngược lại
có thể nói đây là một người phụ nữ thông minh tinh tế.
Sự thông minh tinh tế có thể thấy được qua
cách mà người đàn bà hàng chài đã chủ động thay đổi cách xưng hô từ
"con"- quý tòa" sang "chị - các chú". Dưới góc nhìn ngôn ngữ có
thể thấy người phụ nữ khốn khổ ấy đã khéo léo chuyển từ mối quan hệ thứ
bậc (con - quý tòa) sang quan hệ thân sơ (chị - chú). Chính cách chuyển đổi như
thế, người phụ nữ ấy đã buộc Phùng và Đẩu tiếp nhận câu chuyện của cuộc đời
mình ở một vị thế khác. Chính vị thế ấy, người nghe mới có thể mở lòng hơn để
chấp nhận câu chuyện mà bà sắp thuật lại. Như vậy đây chẳng phải là một điểm
sáng đầu tiên đã phát lộ trong thế giới tâm hồn của người đàn bà hàng chài?
Trong quá trình giao tiếp, người phụ nữ đáng
thương ấy lại tiếp tục khiến cho Phùng và Đẩu chuyển từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên
khác khi bà bộc lộ sự tinh tế của mình trong quá trình giao tiếp: "Đây là
chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu
có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các
người làm ăn lam lũ, khó nhọc...".
Khen người ta trước "lòng các chú tốt" rồi mới
phê bình người ta "các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm
ăn lam lũ, khó nhọc..." đấy chẳng phải là một "chiêu thức" hữu
hiệu để bà có dịp chỉ cho Đẩu và Phùng thấy được những khuyết điểm của mình
nhưng Phùng và Đẩu, những người trí thức, lại không thể phản ứng một cách mạnh
mẽ vì bà đã chạm vào lòng tự ái của họ? Có thể nói đây chính là cách "phản
đòn" khiến Phùng và Đẩu bất ngờ "cũng phải nói thật, những lời
ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với
chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một
người đáng lẽ mụ phải biết ơn... Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ
đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi".
Quả thật khi khuyên người đàn bà bỏ chồng: "Ba
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng
nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị
không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?", Đẩu
đã không đi sâu để tìm hiểu phận đời của những người đàn bà miền biển,
trong đó có người đàn bà đang ngồi trước mặt anh. Cuộc đời của họ gắn chặt với con
cái và phương tiện sinh nhai duy nhất của họ là con thuyền trên mặt biển đầy bất
trắc. Và tất nhiên mỗi chiếc thuyền luôn luôn phải có một người đàn ông chèo chống.
Bắt bà thôi chồng cũng đồng nghĩa với việc cắt đứt nguồn sống duy nhất để duy
trì cuộc sống của một bầy con thơ "Mong các chú cách mạng thông cảm
cho, đám
đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi
phong ba để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục
đứa". Tôi đã thật thú vị khi liên kết chi tiết này với một chi tiết khác trong truyện
"Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ sơ, giấy má.
Đẩu đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc
quần quân phục đã cũ. Một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện
vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ". Tôi băn
khoăn mãi với những suy nghĩ vẫn vơ: Phải chăng sự nhiệt huyết kia của anh
chánh án Đẩu chỉ đang dừng lại ở những hiểu biết thủ tục giấy tờ? Và đây cũng
chính là điều mà Nguyễn Minh Châu âm thầm gửi gắm vào đứa con tinh thần của
mình?
Với Phùng, chính câu chuyện của người đàn bà cũng phần
nào giúp anh nhìn lại chính mình. Trong anh vẫn tồn tại quan niệm: những người bên
kia giới
tuyến đều là những người ác, người xấu. Phùng hỏi người đàn bà một câu như lạc
đề: "Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không?". Có lẽ nguyên nhân
khiến Phùng hỏi câu này chính là sợi dây thắt lưng của lính ngụy mà lão đàn ông
đã dùng để đánh đập vợ. Một chi tiết nhỏ nhưng hàm chứa ở đó một tinh thần phản
biện quyết liệt của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Như vậy đã rõ, nhân vật người đàn bà hàng chài trong
phân đoạn này được tác giả Nguyễn Minh Châu tạo dựng nhằm mục đích soi sáng
tính cách của nhân vật Đẩu và Phùng.
Tôi vẫn thích thú khi qua mỗi dòng mỗi chữ
trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, tôi đã có dịp nhìn sâu hơn vào "hạt
ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người " bị che khuất bởi những lấm láp của cuộc
đời. Tâm hồn của người đàn bà là hạt ngọc như thế. Bà là một người phụ nữ đầy bao dung
và thấu hiểu lẽ đời. Chao ôi! Để thấu thị được lẽ huyền diệu của cuộc đời đâu
phải là việc dễ dàng gì đối với con người trong cuộc sống đầy biến động. Ấy thế
mà một người đàn bà vùng biển "thô kệch", "xấu xí" quê kiểng
đã thể hiện sự thấu hiểu lẽ đời của mình bằng những cách lí giải dung dị khi đề cập
đến sự tha hóa tính cách của lão chồng: "Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục
tính nhưng hiền
lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi". Bà hiểu được nguyên nhân của sự tha hóa ấy. Bằng tấm lòng
bao dung cam chịu bà tự nhận tất cả trách nhiệm ấy lên mình:
"Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn", "nhưng
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật". Bà
đang chiêu tuyết cho chồng mình, đang cố gắng để Đẩu và Phùng thấy nguyên nhân chính của
việc tha hóa ở người chồng là cuộc sống đói khổ thiếu thốn, áp lực về nhu cầu
áo cơm của một gia đình đông con khiến con người ta biến chất trở thành tàn bạo.
Đây có thể xem là một ẩn ý, một tiếng nói hiện thực, một lời cảnh tỉnh của Nguyễn Minh
Châu?
Hơn thế nữa tiếng nói ấy càng trở nên quyết liệt hơn
khi Nguyễn Minh Châu xây dựng chi tiết: thằng Phác vì để bảo vệ mẹ mà đã hai lần
phản kháng lại cha. Nhưng nguy hiểm hơn cả là lần thứ hai thằng Phác đã dùng con
dao găm để
bảo vệ mẹ nó trước những đòn roi tàn nhẫn của người cha. May mà cô chị gái tước
đoạt con dao găm mà đứa em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng
thương. Tội ác đã không xảy ra nhưng nguy cơ tha hóa trong tâm hồn non nớt của
Phác vẫn đang hiện hữu, và chính những vết sẹo tâm hồn này sẽ đẩy thằng Phác đến
những bi kịch khác trong tương lai.
Tôi vẫn khâm phục người đàn bà hàng chài khi bà thể hiện
quan niệm của mình về hạnh phúc. Câu hỏi hạnh phúc là gì? Luôn là câu hỏi lớn trong
cuộc đời của
mỗi con người. Bà quan niệm hạnh phúc khi được nhìn thấy các con ăn no, gia
đình quây quần bên mâm cơm "ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái
chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ", "vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn
no...". Bà biết chắt lọc những hạnh phúc nhỏ bé trong cuộc sống để làm điểm
tựa giúp bà vượt qua những khổ đau của cuộc đời.
Chính cuộc đời của người đàn bà hàng chài đã làm thay
đổi sâu sắc quan niệm về cách nhìn nhận đánh giá con người cũng như quan niệm về
nghệ thuật của nhiếp ảnh gia Phùng. Chi tiết cuối tác phẩm, chi tiết về "tấm
ảnh trong bộ lịch năm ấy" là một chi tiết thể hiện sự thức ngộ của người
nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực đời sống "Không những
trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được
treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh
đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của
ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu
hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một
người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch
có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt
đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hoà lẫn
trong đám đông..." . Nghệ thuật chân chính phải bắt thật sâu vào đời sống của con người.
Nghệ thuật chân chính là thứ nghệ thuật vì con người. Nhiệm vụ thiêng
liêng của nghệ thuật là đi sâu vào khám phá đời sống chân thực trong tâm hồn của mỗi con người.
Như vậy có thể nói qua từng ấy những con người trong
câu chuyện của người đàn bà hàng chài, từng ấy những quan niệm mà bà đã ấp ủ,
người mẹ miền biển lam lũ khó nhọc đã
"tự nhiên" cãi "trắng án" cho mình.
Và vì thế mà sẽ không quá lời khi tôi nghĩ rằng:
Người đàn bà không tên của Nguyễn Minh châu sẽ tiếp bước những người đàn bà vô
danh khác trong văn học nước nhà để trở thành những người
đàn bà nổi danh trong văn học Việt Nam.
Chú thích
([1]) Tôn Phương Lan – Phong cách nghệ thuật
Nguyễn Minh Châu – NXB KHXH - 2002
([1])
Trên Văn học và tuổi trẻ số tháng 4 (185) 2009 đã đăng tải tả nhiều ý kiến xung
quanh một bài viết "Có phải Nguyễn Minh Châu lỡ lời
không?" đã được đăng ở Văn học và tuổi trẻ số tháng 2 (185) 2009, trong đó
có ý kiến của Trần Quang Đại xem đây là "một chi tiết lỗi".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI