Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

GIỚI THIỆU TẠP CHÍ CHƯ YANG SIN SỐ: 297 - THÁNG 5 NĂM 2017 tác giả HUỲNH THẠCH THẢO


MƯA ĐANG TRÔI QUA SÔNG
Truyện ngắn

Già Tư đang chập chờn trong giấc ngủ nhưng vẫn nghe tiếng gió thổi ràn rạt ngoài liếp cửa. Độ này gió chưa nhiều nhưng cũng đã gần hết mùa, cái gió luôn réo rắt bắt người ta cứ da diết một cái gì đấy, thường qua đi từ lâu rồi đột ngột nhớ lại. Ừ lạ, mỗi lần gió đổ trên sông là nỗi nhớ lại đong đầy và quặn thắt như bóp nghẹt trái tim ủ sau lồng ngực. Ngủ không được già Tư trở mình ngồi dậy, tiện tay đẩy liếp cửa sổ đan bằng lá dừa đều tăm tắp. Nó ấm sực vào mùa gió và mát rượu vào mùa hè chang chang nắng đổ nhưng khi lũ về thì tất thảy bị chìm ngập vào làn nước và ông lại cần mẫn, cặm cụi làm cái mới.
Chiều vàng hanh, nắng đổ vệt dài qua đám cỏ mật kề túp lều trước doi cát cong cong hình vành nón, nhánh phụ lưu vắt ngang cho một dòng chảy nhỏ lấp lánh quanh đám cỏ lau cùng những con chim mỏ nhác đang chấp chới đôi cánh mỏng. Đột ngột cả bầy đồng loạt lao vút khi có bóngc chiếc xuồng từ xa chếch mũi tấp vào chỗ già Tư cùng câu nói vọng đến:
-Chú Tư, cỏ tốt dữ, mới cắt đợt trước chưa quá hai tuần giờ xanh rì.
Già Tư nheo mắt nhìn ra bãi, tiếng Sáu cà lết vừa neo xuồng vừa gọi tới. Ông bước ra cửa nhìn vạt cỏ, nhìn dáng khập khiễng của Sáu đi vào và như mọi lần, ông nhìn ra sông, nắng đang trải dài.
-Đận nầy cắt sát gốc để dưỡng cỏ, tao nghi năm nay có lũ về sớm.
Sáu cà lết gật đầu khi nghe già Tư nói. Nước về là trắng bờ, cuồn cuộn chảy cả tháng trời. Những túp lều của người trồng cỏ cho dân nuôi bò đàn, bò cày và cả bò sữa tất tần tật tháo dỡ trở về đợi lũ qua, nước ròng cạn mới quay lại trồng mùa cỏ mới. Sáu cà lết đặt nhẹ túi ni lông lên chiếc chõng tre dưới giàn mướp trổ vài nụ vàng rồi cười bảo:
-Anh Bửu bảo cháu gửi biếu chú Tư, mua tận ngoài Hà Nội đấy!
-Lại bày vẽ, nói nó sang tao làm vài ly có hơn không.
Nói vậy, nhưng già Tư vẫn cười và vẫn nheo mắt nhìn sông. Xa mờ trên kia là dãy núi ông Tượng, nơi ấy trong những hốc đá rộng rãi ẩn dưới tán cây rừng cách đây hơn ba mươi năm là căn cứ huyện đội, nơi có trung đội đặc công của ông. Thằng Phong, thằng Bửu, thằng Hòa và cả thằng Sáu cà lết… cái thằng tật nguyền với chiếc xe đạp cà tàng bán cà rem, chiếc ná cao su móc trước ghi đông xe đi rong ruổi khắp xóm. Chẳng biết nó lang thang thế nào mà lọt vào khu đồi mọc đầy hoa mua kề đường lộ lúc bọn ông vừa đặt chân đến chờ đêm xuống áp vào lô cốt địch. Nó khóc lóc van vỉ, xin tha tội vì mải mê bắn chim gáy nên lọt vào. Không còn cách nào khác, ông bảo thằng Phong ở lại bên nó kẻo lộ rồi tính sau. Đêm ấy, thằng Chiến không có Phong hỗ trợ phía nam nên bị bọn Nam Hàn đốn ngã lúc vượt rào. Cũng không biết Phong nói sao mà Sáu cà lết vứt vội thùng kem chảy nước lẫn chiếc xe đạp tàng để xin theo. Lên cứ nó lại ti tỉ khóc vì nhớ mẹ, sợ ma mỗi khi rừng chiều đổ bóng. Lại thằng Phong phải nhát cọp cho nín. Sàu cà lết là đứa nhỏ nhất nhưng là đứa lanh lợi dù có đôi chân chấm phẩy.
*
- Mình ngồi ngoài này cho mát nghe chú?
Già Tư quay lại nhìn Sáu cà lết đang lui cui bày trên mặt chõng tre chai rượu thuốc, xâu nem lúc bầy chim mỏ nhác đã quay lại nghiêng cánh đậu trên doi cát. Ông bảo:
-Mày nhớ nhắn lũ thằng Tâm ra gom cỏ
Sáu rót rượu ra ly đưa sang ông rồi gật đầu:
-Tối nay con sẽ qua đó, sẵn tiện bảo bọn thằng Xu cho người gom sạn kẻo lũ về trôi sạch.
Ông nhấp rượu, cay cay thơm nồng đượm mùi cỏ gai, cỏ mật, lẫn trong cảm giác ngọt dịu của củ thiên môn, đăng đắng của dây hà thủ ô mọc nhiều ngoài doi cát. Túp lều trông cỏ nằm trên đoạn ễnh cong của dòng phụ lưu nên bao quát một vùng sông nước, mênh mông nắng gió lẫn sương khói. Bọn thằng Sơn, tốp đãi sạn mỗi chiều dong buồm trở về đổ sạn đều ghé lại ngồi trên chiếc chõng tre, xin ông ly rượu cho giãn gân cốt sau một ngày lặn mò phía thềm đá trải. Bọn nó không kêu ông là già Tư như Sáu cà lết mà gọi “ông già hoài niệm” vì những gì bọn chúng trông thấy, nghe kể đều mang một vẻ hoài niệm gì đấy. Từ căn lều lợp tranh, vách che lá dừa nằm trên doi cát đến vật dụng cần thiết, cả cách ăn mặc hay câu chuyện ông kể từ thời bọn nó nằm trong bụng mẹ. Nhưng đặc biệt hơn cả, ly rượu của ông luôn toát ra mùi hương hoa cỏ đất này. Mỗi sáng tinh mơ dong thuyền ngang qua túp lều, thằng Sơn tốp trưởng đều chụm tay gọi lớn “Ông ơi! Khi con xuôi dòng ông cho ly rượu hoài niệm nhé ông!” trong khói sương bảng lảng lành lạnh.
-Thằng Bửu ra Hà Nội họp gì lâu vậy Sáu?
-Dạ, nghe nói đợt này Quốc hội họp hơn tháng, sẵn tiện ảnh đưa vợ theo để khám bệnh. À, trong gói quà có hộp sâm để chú ngâm rượu.
-Nó gửi làm gì, bọn thằng Sơn cũng hết mùa lấy sạn, đâu ghé nữa- Già Tư ngước nhìn bầy cò đang chao cánh qua sông.
Cỏ cũng đã sang mùa, sạn cũng hết trôi sông, ông lại phải về làng. Nơi ấy, trong vòng cung lũy tre xanh có căn nhà ngói đỏ. Người vợ gá nghĩa vì sự trống vắng của cả hai tất tả giũ chiếu mền; mở vội cánh cửa sổ nhìn ra khoảng sân rộng, có bụi chuối cùng ang nước quen thuộc đặt dưới gốc khế cụt ngọn; thêm cái vẫy đuôi của con Vện là hết.
Chiều dần sẫm tối, già Tư nhìn mông lung ra xa. Thuyền vắng, mặt sông gờn gợn hơi nước, bóng chim phía xa cũng hối hả bay về chân núi. Tý nữa thôi, dưới xa kia nơi chiếc cầu bê tông nối hai bờ cong dài như vành mi thiếu nữ sẽ lấp lánh ánh điện.
- Thôi, con về chú nhé, sáng mai con qua sớm.
Sáu cà lết rót thêm rượu vào ly cho ông trước khi vào lều thắp ngọn đèn dầu. Già Tư bảo:
- Cơm buổi trưa hãy còn, đừng nấu. Mày đem gói quà về cho mấy đứa nhỏ, hộp sâm đưa qua cho bả chứ tao giữ làm gì.
Sáu cà lết im lặng nhưng lúc đặt chân lên bãi cát lại quay vào nói nhỏ:
- Quà ấy để dành ngày giỗ chị Quyên, còn hơn tuần nữa. Bữa ấy, mấy anh sẽ đến và đưa chú về nhà thăm thím.
Ly rượu trên tay già Tư sóng sánh, ông có cảm giác mát lạnh nơi kẽ ngón lẫn vế đùi trong không gian cô đặc màu chiều. Ông cúi đầu không dõi theo bóng Sáu cà lết tháo dây để quay mũi xuồng mà ông quay sang hướng núi xa mờ. Nhắc đến Quyên, hay nghe ai nói tên Quyên, ngực ông buốt nhói như có vật gì đè nặng. Nặng hơn nhiều khi nghe tin thằng Chiến ngã xuống bên rào thép gai Mỹ rồi thằng Hạ, thằng Hòa, thằng Dũng cũng hy sinh. Đau hơn nhiều khi nghe tin thằng Phong phải ra toà và vào vòng lao lý vì tội tham ô. Như có cảm giác vào buổi sáng ngày đầu giải phóng quê nhà, nhìn lại trung đội lúc mới thành lập đến giờ chỉ còn có sáu người khi áp sát vào cổng tòa hành chánh Ngụy. Bỏ lại phía sau niềm hân hoan tột cùng, cả bọn kéo nhau ra khúc sông mênh mông có đoạn ễnh cong này để ôm nhau khóc. Ba thằng trẻ buông súng nắm lấy sách vở đi học, một thằng sang làm chủ tịch xã, Sáu cà lết tìm về gia đình thì mẹ đã chết trong một trận càn nên theo ông về làng. Còn Quyên, cô gái ấy cũng vĩnh viễn nằm lại trên dòng sông Ba có nhiều phụ lưu mà đâu hề biết rằng, vào ngày cờ hoa rực đỏ có người đàn ông trong trang phục màu cỏ úa tất tả đi dọc các triền cát, soi xa, soi gần mà réo gọi tên cô trong gió lộng thổi tràn trề.
*
Bóng tối tràn đầy trên mặt sông sóng vỗ ì oạp mang theo cái lạnh cuối mùa gió. Già Tư đầu cúi gục trong suy tưởng: Hơn mười năm ở cứ, hơn ba mươi năm về lại quê nhà, từ một chàng trai vâm váp, nụ cười rộng mở nhưng không cản nổi dòng thời gian đã thành một kẻ già nua, cũ kỹ. Ông nhớ, cứ mỗi chiều từ cứ nhìn xuống đồng bằng, nơi có soi cát làng ông, những dải cát vàng óng vào mùa gió nam cồ hung hãn kéo cát bay phủ trên dải sông trong văn vắt. Những ngọn gió mát lạnh dịu ngọt thổi suốt qua thời tuổi thơ, thổi vào lòng ông một cô nhỏ tóc đuôi gà bên rào hàng xóm cùng những đêm trăng sáng và tất cả đảo lộn khi căn cứ pháo binh Mỹ đóng ở núi Sầm dội vào làng những vầng lửa đỏ. Những ngôi mộ lần lượt mọc lên, trong ấy, có cô nhỏ bên rào. Những mảng ruộng dần hoang hóa và thây người trôi trên sông. Ông đi, mang theo một ước mơ duy nhất là về lại chốn quê để được đặt chân lên con đường làng cũ, hòa vào ngọn gió mát lành của dòng sông, cánh đồng, soi xa, soi gần đầy dịu ngọt ấy.
Cái đận cả trung đội đặc công quần đùi, áo cánh thuộc lòng trên sa bàn cách đánh vào ngọn đồi nhỏ kề sông Bến Lội, nơi đặt giàn pháo ca nông 105 ly của Ngụy. Không phải đánh thẳng vào hướng chính canh gác cẩn mật mà phía có triền dốc thoai thoải cùng nhiều bụi gai sát ba lớp rào kẽm gai chăng đầy mìn. Người áp sát để điều nghiên cách mở rào thật nhanh cho đồng đội lao vào sẽ là ông, sẽ đối mặt với đèn pha quét sáng, các ánh mắt dõi qua ống nhòm của bọn lính canh trên các lô cốt sẵn sàng nhả đạn và cả đại đội Nam Hàn bao bọc vòng ngoài phía gành đá để bảo vệ. Nhưng ai sẽ đưa ông xuống tận nơi, nằm trong hầm bí mật vài ngày để tận mắt theo dõi các hoạt động? Huyện đội bảo đợi. Hai ngày, ba ngày rồi sang ngày kế tiếp; cả trung đội ngáp dài chờ gọi tên vào tốp đánh rủ nhau ra suối mò cá. Nghĩ chán, đợi mỏi ông cũng ra ngách gộp đá bao phủ dây rừng để nhìn về đồng bằng thì đụng phải Ba Hoàng, huyện đội phó, sau lưng Ba Hoàng thấp thoáng bóng cô gái trong bộ đồ nâu sẫm trời chiều.
Đó là Quyên.
*
“Anh xuống hầm để em đậy nắp”. Quyên cười khúc khích trong đêm khuya đầy ánh sao trời.
Căn hầm bí mật nằm cạnh bờ tre sát mé sông Bến Lội tiện cho việc quan sát. Đang vào hè, nhưng cả triền sông cỏ vẫn mọc xanh rì như tấm thảm đến tận miệng hầm dù chói chang nắng, dù lơ thơ giữa dòng từng vạt cỏ lau xác xơ đơm hoa trắng. Trước khi bóng tối tràn ngập chỉ còn kẽ hở, ông kịp nhìn Quyên, cô gái có đôi mắt to long lanh nhìn ông cùng hơi thở nhẹ.
“Tắm vừa thôi kẻo bệnh”, Quyên lại bảo khi trời đã khuya cô ra mở nắp hầm mang theo một mùi hương nhẹ thoảng. Cả ngày dù ông chú ý ghi nhớ cặn kẽ mọi hoạt động trong đồn nhưng ông vẫn ngửi được hơi cỏ, nhắm nháp vị đăng đắng từ các cọng rễ mọc lan theo vách đất; cảm nhận được từng ngọn gió mát của đồng bằng đầy trong trẻo, nghe được tiếng chim dồng dộc đầu đội chóp vàng đóng tổ tận đọt tre cao ríu ran sáng chiều. Hơi thở của đồng bằng thoáng đãng bao bọc lúc ông thả người trôi trên dòng nước đậm phù sa, ngửa mình nằm trên thảm cỏ để nhìn sao trời lấp lánh và cả bóng Quyên, đang ngồi im lặng trong màn sương phủ mờ.
Một ông sao sáng…Hai ông sáng sao… Ba ông sao sáng…Ông đếm như lúc nhỏ từng nằm trên chõng tre cạnh mẹ ngoài sân đêm hè. “Vào ăn cơm đi anh, người gì mà như con nít”, tiếng Quyên cười chao nhẹ trong gió.
“Giải phóng xong, anh Tư định làm gì?” Quyên hỏi rồi cúi đầu để tóc che lấp khuôn mặt.
“Bờ sông làng tôi rộng lắm, tôi sẽ trồng thật nhiều mướp soi để…” , ông im lặng nhìn Quyên.
“Để làm gì anh Tư?”
“Cho Quyên ra chợ…”. Đó là câu nói đầu tiên trong đời ông đùa với một người con gái.
“Không, em nghĩ khác là anh… phải trồng cỏ”
“Chi vây?”
“ Để anh làm nệm nằm đếm sao trời”
Ông bật cười.
“Gà gáy rồi, xuống hầm nghe anh , em phải vào lo việc ngày mai”
Cả hai đứng lên, dưới vòm sao có vầng trăng khuyết, ông thấy một thân hình thon thả và lại có một mùi hương trôi trong gió thoảng. Cú vấp nhẹ khi Quyên va phải gốc tre chìa ngang lối và bàn tay dịu mát vội nắm lấy tay ông.
“ Cẩn thận nghe anh Tư”
Ông gật và nhìn Quyên, ánh mắt nhìn thật dễ chịu, lại cảm nhận một mùi hương thật nhẹ trước khi rời khỏi bụi gai mắt mèo toài người lăn xuống khe suối cạn của đêm đầu tiên ấp vào hàng rào thép gai Mỹ. Sáng lắm, sáng cả khu vực bởi hai ngọn đèn pha quét chéo goc. Sau lô cốt số 1, số 2, số 3 để yểm trợ nếu bị tập kích là khoảng sân lô nhô thùng sắt Conex chắn đạn, sau đấy mới là nơi đặt các khẩu pháo. Cơ sở vẽ đúng và sa bàn thật chỉnh. Ông xoay người bám vào bụi cỏ Mỹ mọc sát mép rào để nhao xuống thì đạp phải viên đá nằm chìa sát mép suối khiến ông bật ngửa. Ba giây sau, tràng đại liên rít toang toác, lừ lừ đạn lửa tạt ngang, ông co người nằm lặng.
“Có sao không anh?”, tiếng nấc của Quyên.
“Còn nguyên chưa rách chỗ nào!”.
Đó là khi ông quay ra, lâu lắm vì sợ Nam Hàn phục phía ngoài. Lúc đến bụi gai mắt mèo, ông nghĩ Quyên đã rút. Nhưng có một mùi hương nhẹ thoảng, rất nhẹ mà ông cảm nhận được rồi bóng người nhao đến cuộn lấy ông.
“Mai kia hòa bình anh về làm gì?”, Quyên lại hỏi lần nữa.
“Sang sông rủ một người theo mình về trồng cỏ ngồi đợi trăng lên”.
“Nằm chứ, nằm thích hơn”.
“Ừ, thì nằm”.
Lại tiếng cười khẽ trong gió lúc hai người ra khỏi khu vực đồi pháo binh để về triền cỏ sát căn hầm bí mật, Quyên nép gần ông hơn.
“Còn Quyên, lúc ngừng tiếng súng có về…”.
“Em sẽ về với một người hơi ngớ ngẩn nhưng đáng yêu. Mỗi tuần nấu một lần canh mướp để khỏi quên ngày nào ở hầm!”.
“Thế cha mẹ Quyên?”.
“Em phải trả mẹ về bên cha chứ, gần mười lăm năm kẻ Nam người Bắc rồi”.
Ông chợt nhớ lời của Ba Hoàng: Cha Quyên đi tập kết, lần này khi nhổ xong đồn pháo binh phải đưa Quyên lên cứ tránh sự truy lùng của địch và nếu được, sẽ theo đường dây ra Bắc.
“Xong trận này, Quyên xin thoát ly thì nấu canh mướp dài dài”.
“Rồi nhé, không được Nẫu về xứ nẫu bỏ mình bơ vơ đấy!”.
Cái ngoéo tay và cơ thể con gái áp sát, mùi hương lần này gần hơn, đến thấm đượm môi ông ngọt dịu.
“Người Quyên có mùi thơm lạ”.
“Em gội đầu bằng lá dứa vì thích. Nó cũng là loài cỏ thôi mà”.
“Sao không gội bồ kết?”.
“Mùi thơm ấy sẽ đượm lâu, lan xa. Địch phục kích thì phát hiện liền”.
Đêm cuối cùng trước khi ông quay lên cứ. Cả hai ngồi trên vệ cỏ sát bờ sông, gió vẫn miên man thổi tóc Quyên vờn nhẹ qua người cùng mùi hương dìu dịu. Rất lâu, hai người vẫn lặng yên không nói.
“Anh sẽ đón em trên ấy chứ?”.
“Ừ đón”.
“Anh có bảo bọc em không?”.
“Cả trung đội chứ đâu riêng gì anh”.
“Nhưng anh là của em, em phải dạy anh thành người lớn, ông con nít ạ!”. 
Ông choàng tay ôm gọn người Quyên, Quyên nép sâu hơn và cả hai ngã người trên cỏ. Nụ hôn vội vàng, bàn tay ông vuốt nhẹ qua tóc, trườn qua vai, sâu xuống và xuống nữa để ông dần cảm nhận thì Quyên khẽ oằn người rời khỏi tay ông.
“Ta đi kẻo trễ, giờ đến ngã ba sông thì trời dần sáng. Em còn phải quay lại kẻo gặp lính đi phục về chặn đường”.
Trận đánh của đội đặc công diễn ra chớp nhoáng nhằm tránh pháo ca nông Núi Sầm yểm trợ và bọn lính đổ đến. Cái khó nhất là vào nhanh tránh thương vong khi đèn pha liên tục quét sáng. Lúc ở hầm ông nghĩ mãi và đêm cuối, người mở cách cho ông, lại là Quyên. Khi ôm túi mìn lao sát hàng rào kẽm gai, đợi hai luồng sáng va vào nhau thường là lúc địch ít dõi theo nhất vì chúng lo định hướng luồng sáng của mình. Ông đã thành công trong tiếng bùng vỡ, nháo nhào, sôi réo sùng sục. Con đường mòn lúc ông đi qua lần trước thì ngắn, giờ như dài hẳn ra khi tất cả tuôn về dưới pháo sáng treo lơ lửng cho kịp đến triền sông Bến Lội. Nơi sẽ có anh em trong trung đội đợi tiếp ứng. Vậy mà ông vẫn phải để Hiên nằm lại trên hàng kẽm gai với Giang gục cạnh lô cốt số 3. Vượt sông, đạp qua trảng tranh thì những vầng lửa đỏ của pháo nối đuôi nhau chặn đường. Từ gộp đá đầu tiên ngăn cách giữa rừng núi và đồng bằng, ông đưa mắt nhìn về sông Bến Lội, Quyên đang làm gi? Mùi hương nhẹ thoảng đã đón ông cùng mọi người lúc sẫm tối với bàn tay nắm lấy vội vã, nụ hôn trôi qua nhanh, lời thì thầm chen trong tiếng côn trùng và Quyên đi để ông vào trận khi màn mưa rây rây rắc hạt che phủ cả ngọn đồi.
*
Khuya lắm, sương rơi đậm hạt, bóng thuyền câu đỏ ngọn đèn dầu chập chờn trên sông đã tắt. Già Tư đưa mắt nhìn vào khoảng không xa mờ. Hình như vừa có lằn chớp rạch ngang trên rặng núi xa, rạch một nhát âm thầm không vụn vỡ nhưng nó để lại một vết sẹo khó phai mờ.
…Hai tháng sau đận tập kích. Sáu cà lết cùng Bửu đi mũi đưa tốp người bên huyện về đồng bằng để làm công tác binh vận, tiện thể đón Quyên lên. Cả tuần liền, ông nôn nóng ra vô gộp đá để nhìn xuống đồng bằng. Trời đang sa mưa, mù mù cả dải trắng như bức rèm che chắn tầm nhìn. Lúc này, địch tăng cường sục sạo trước mùa nước nổi như muốn bít lối tất cả. Mờ sáng hôm sau lúc khí đá còn bao bọc thì Sáu cà lết lao vào gặp ông bật khóc nức nở. Đêm qua khi tóp người vượt triền cát để bơi qua sông Ba đâu ngờ Nam Hàn phục chặn đầu. Chuỗi mìn định hướng claymo xáo tung và Quyên đã trôi theo dòng nước. Tiếng gầm của ông bật lên rồi ứ nghẹn, với tay chụp súng, ông xô bật Sáu cà lết để leo ra khỏi gộp đá nhào xuống cung đường an toàn khi gặp Bửu đợi sẵn, nó cũng khóc ôm chặt lấy ông không rời. Một ông sao sáng…Hai ông sáng sao…Ba ông sao sáng, một triền cỏ rộng với vòng tay ôm, một lời chờ đợi đã hết. Tiếng chim từ quy gọi bạn lảnh lói vang rộng trên đám cỏ tranh, vượt qua chuỗi dây leo trên gộp đá sặc sỡ sắc hoa rừng, vang mãi.
Nỗi nhớ về một triền sông có nhiều đám cỏ xanh mượt mà trong nắng sớm không còn là nỗi da diết vào mỗi buổi chiều nơi triền núi, giờ thì cả trong buổi sáng mịt mờ khói đá, buổi trưa ong ong nắng đổ. Và Quyên, cô ấy mang cả hơi hướng của gió mát, của hương cỏ non, hiển hiện dáng hình một dòng sông trước nhà ông có đoạn nhô cao, có đoạn thắt đáy, có doi cát cao vồng nhấp nhô, có lõm sâu hun hút, có lõm cạn chứa chan, có cát và cát cuồn cuộn quyện lấy nhau như độ gió nam non chuyển qua nam cồ lồng lộng và cả vẻ êm đềm ngọt dịu phù sa đượm nồng. Cỏ sang mùa vẫn xanh cho mùa réo gọi mùa “Chim Quyên ăn trái nhãn lồng…”.
Tiếng vạc ăn đêm trở về, qua sông da diết gọi đàn. Đêm đã dần trôi khi phía chân trời ánh sao Mai đã mọc trên vòng cung chiếc cầu bê tông nối hai bờ cong dài như vành mi thiếu nữ. Gió đã nhẹ êm đợi giờ trở lại, cỏ đã thôi phơ phất để chờ tia nắng ban mai. Sau lưng già Tư, Sáu cà lết quạt dầm rẽ nước hướng về doi cát có đoạn ễnh cong. Bất chợt, Sáu nhìn lên căn lều quen thuộc thấy bóng một người lặng yên dưới giàn hoa mướp liền quẳng dầm, nhảy vội khỏi xuồng lao đến.
Trời đất, chú Tư sao lại ngồi ở ngoài nay!
Sáu ôm choàng lấy ông, cảm nhận cái lạnh của sương gió tràn qua người mình. Sương đẫm trên người ông, trên vạt tre, trên chiếc ly trần đầy rượu hoa cỏ và nhạt nhòa bụi nước khắp một triền sông.
*
Trong một cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội ở huyện T. anh Bửu đã nói với mọi người là cần quy hoạch cánh đồng cỏ dọc triền bờ nam sông Ba, nó sẽ cho hai việc cần thiết, đó là phát triển đàn bò thịt từ nguồn cỏ mật đồng thời góp phần chống xói mòn đất dọc theo triền sông. Vào giờ giải lao, tôi gặp riêng anh ngoài hội trường tỏ ý muốn tìm hiểu về vùng đất và những người trồng cỏ. Không đợi hết câu, anh nhìn đồng hồ rồi cười “Hay lắm, cậu lên ngay trên đó gặp chú Tư Rô, người lính chỉ huy một thời của tôi, người đầu tiên sau chiến tranh đã có ý tưởng và thực hiện việc trồng cỏ dọc triền sông. Ta trao đổi sau khi cậu gặp chú ấy”. Tôi ở với già Tư vẻn vẹn một đêm vào giữa mùa gió chướng, nghe nước dội bờ từng đợt hòa tiếng cỏ lay, nghe kể về một chuyện tình lúc tuổi tôi còn nhũng nhẳng níu áo mẹ ra chợ làng. Sáng hôm sau lại rong ruổi theo tốp đãi sạn đến hai ngày. Không giã từ già Tư lấy một tiếng, chưa kịp gặp anh Bửu để trao đổi thì phải lo việc khác. Tháng sau, tôi lên lại túp lều của người trồng cỏ thì chỉ gặp chú Sáu. Mới biết, già Tư đã ra đi đúng ngày giỗ của chị Quyên, đúng hơn là cô Quyên nếu người ấy còn sống.
Chú Sáu kể thêm câu chuyện già Tư khi cả hai ngồi trên chiếc chõng tre dưới giàn mướp vào chiều có gió đổi mùa, kéo theo cơn mưa dai dẳng buôn buốt da thịt, nước sông đã lên cao phủ dần doi cát có đoạn ễnh cong, cả những ngọn cỏ cũng vươn cao để sang mùa nước nổi của lũ đổ về. Chú Sáu còn đưa tôi xem các lá thư của chị Quyên gửi cho cha theo đường dây mật để ra Bắc. Ngày giải phóng, ông đã mang về và gặp già Tư. Ngoài những gì hai mẹ con chị Quyên sống chân đồn pháo binh kề sông Bến Lội, thì có đoạn viết về già Tư trong trang giấy ố vàng:
“Cha ạ, con theo chú Ba Hoàng lên cứ để đưa tổ đặc công về làng. Người đầu tiên con gặp và yêu liền cho dù người ấy chỉ thoáng nhìn con ra vẻ không cần vì con là phụ nữ. Khi con theo người ấy ra suối, nhìn dáng vẻ lóng ngóng nhưng lại luôn cố tỏ ra nghiêm nghị khiến con phải bật cười. Một khuôn mặt đẹp đầy kiêu hãnh nhưng nhìn vào đôi mắt lại luôn ẩn giấu sự cô đơn trống trải. Con nghĩ về cha qua lời mẹ kể và nhìn người ấy để thấy bóng hình cha, vì khi cha đi con mới vừa ra đời…”- “… Những ngày ở hầm bí mật sau vườn nhà, hình như con thấy cả tuổi thơ anh ấy hiện về và con cũng chắp nối tuổi thơ của mình. Con sinh ra lại nằm trong vòng tạm chiếm chỉ có lửa đạn và những lần theo mẹ tản cư, làm sao có nhiều niềm vui. Con còn mẹ và cả cha nữa dù phải cách xa ngàn dặm; còn anh ấy không có lấy một người thân sau những trận càn. Cha đừng cười con nhé, anh ấy bộn tuổi rồi và cha cũng đừng giận con nhé, từ lâu cha mong con ra Bắc để đi học; sau này trở về xây chiếc cầu nối hai bờ con sông Ba của quê mình; nhưng con cũng đang có một chiếc cầu nối liền đôi bờ hạnh phúc trong lòng…”
Tôi ngồi lặng nhìn chú Sáu thắp nhang và thu dọn đồ đạc. Trước khi rời khỏi doi cát có đoạn ễnh cong, chú đến sát mé nước lặng lẽ châm lửa vào xấp thư của chị Quyên. Trong làn khói tỏa lan, tôi thấy già Tư như hiền hiện trước mắt và khi cơn gió vừa chao đến cuốn tung tàn tro rơi dập dềnh trên sóng nước, hình ảnh chị Quyên lại hiện hiện về. Cả hai như quyện vào nhau với hoài niệm đã qua, cho dù thời gian đã xóa nhòa tất cả. Cỏ đã sang mùa nhưng trên triền sông khi vào vụ mới sẽ có nắng ngập tràn, có loài chim mỏ nhác lông trắng trở về ríu rít thì đã vắng một túp lều của người trồng cỏ sông Ba.
Mưa đang trôi qua sông, trôi mãi về phụ lưu có dòng Bến Lội xa mờ.











Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẬN XÉT MỚI