Sổ tay thơ:
THẤY GÌ TRONG BÀI THƠ BẦU TRỜI VUÔNG
Bài thơ Bâu trời vuông
của Nguyễn Duy trong chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ 1972-1973 của Tuần báo
Văn Nghệ. Ngay tên bài thơ đã thấy lạ: Làm gì có bầu trời vuông? Thế mà có đấy. Ai từng mang ba lô con cóc ra
chiến trường những năm đánh Mỹ đều biết đến tấm tăng: Một tấm ni-lon dày,
hình chữ nhật, có bốn khuy ở bốn góc dùng để móc vào cành cây. Tăng gắn liền với
võng. Quân giải phóng đều ngủ võng: “Cong cong võng bạt anh nằm” (Võng
trăng) nên thường chọc đùa nhau là ngủ cong! Khi mắc võng, tăng được sử dụng làm
mái che mưa nắng. Lỡ hy sinh, tấm tăng còn được dùng để khâm liệm thay chiếu đưa
anh về đất như cách nói của Quang Dũng. Ấy là hòan cảnh phải như
thế - Đã mang thân ra chiến trường ai có sá gì tăng võng bọc thây. Vì thế, cũng
giống như cây súng, chiếc ba lô, bi đông nước… tăng võng gắn liền với cuộc đời
người lính. Nhưng như đã nói: Chiếc tăng có hình chữ nhật. Khi mắc lên hai mái,
nó cũng tạo ra một không gian chữ nhật chứ làm gì có hình vuông? Vậy tại sao
Nguyễn Duy viết: “Thắng rồi trận đánh thọc sâu/Lại về với mái tăng:bầu trời
vuông”? Muốn hiểu điều này thiết nghĩ cần trở về với cảm thức văn hóa dân tộc.
Bởi là người Việt Nam ai lại không biết “Sự tích bánh chưng bánh dầy’’
mà hoàng tử Lang Liêu đã chế biến ra bằng những nguyên liệu có sẵn như gạo nếp,
thịt lợn, đậu xanh… nhưng lại là những thứ quý báu nhất (nuôi sống con người) để
dâng lên cúng gia tiên. Bánh Chưng tượng trưng cho Đất: “Đất có cây cỏ,ruộng
đồng thì phải màu xanh,hình phải vuông.Trong bánh phải có thịt,cho đỗ để lấy ý
nghĩa đất có cầm thú,cỏ cây” .Bánh Dầy tượng trưng cho Trời: “Đem nếp đồ
lên cho dẻo, giã ra ,nặn hình tròn và khum khum giống vòm trời’’. Nhà vua
phán rằng: “Hai thứ bánh này bày tỏ được lòng hiếu thảo của con cháu, tôn ông
bà tổ tiên như Trời-Đất. Nó chứa đầy tâm tình quê hương, ruộng đồng, bởi nó được
làm bằng những hạt ngọc quý nhất của Trời-Đất, và những hạt ngọc ấy mọi người đều
làm ra được. Chẳng phải đó là những món ăn ngon nhất,quý nhất để ta dâng cúng tổ
tiên hay sao?”. Từ đó mà thành mỹ tục: Hàng năm đến ngày Tết mọi người lại
làm bánh chưng bánh dầy bày lên bàn thờ tiên tổ: “Cũ như thể tấm bánh chưng/
Mỗi năm mỗi Tết lại bưng lên thờ” (Phạm Công Trứ). Vậy có gì liên quan đến bầu
trời vuông? Xin thưa:Trời-Đất cũng như Cha-Mẹ là các cặp Âm-Dương nguồn gốc
của Vũ trụ, muôn loài và Con Người. Biểu tượng của Âm là hình vuông mang bản chất
tĩnh. Biểu tượng của Dương là hình tròn mang bản chất động. Âm-Dương hài hòa thì
vạn vật sinh sôi, mùa màng tươi tốt, sức khỏe tràn trề, con đàn cháu đống… Cho
nên tục cúng bánh chưng bánh dầy còn thể hiện khát vọng hướng về sự thịnh vượng,
yên bình, hạnh phúc. Nguyễn Duy viết tiếp: “Sục sôi bom lửa chiến trường/ Tâm
tư yên tĩnh vẫn vuông một vùng”. Phải là “Tâm tư yên tĩnh” hoàn toàn
thư giãn, thanh thản mới có thể đối trọng với không khí chiến trường sục sôi, căng
thẳng và nóng bỏng. Đó là hai trạng thái tĩnh và động, chiến đấu và nghỉ ngơi,
vuông và tròn vận động chuyển hóa, bù trừ và thay thế cho nhau rất linh diệu tạo
ra sự cân bằng, hòa hợp. Tứ thơ được hình thành từ khổ thơ đầu đã mở ra một
bầu trời vuông mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc mà cũng rất…Nguyễn Duy! Dưới bầu trời vuông ấy anh chiến sỹ sẽ ngả
lưng khoan khoái sau trận đánh tận vào sào huyệt kẻ thù - Trận thọc sâu
rất nguy hiểm nhưng đã thắng rồi, về nghỉ lại sức để còn đánh tiếp nữa.
Bây giờ anh mới có thì giờ giành cho cõi riêng tư: “Mở trang thư dưới bóng rừng
đung đưa”.Bóng rừng chở che, tin cậy. Hai chữ đung đưa tạo hình cánh
võng chao qua chao lại như con lắc đồng hồ hòa cùng nhịp thơ lục bát đều đặn, êm
ái, như vẳng tới lời hát ru mơ hồ từ chốn xa xăm. Rồi tứ thơ bỗng đột ngột phát
triển thành hai câu thơ khá bất ngờ: “Trời tròn còn lúc rơi mưa/ Trời vuông
vuông suốt bốn mùa nắng xanh”. Trời tròn luôn biến động lúc mưa lúc
nắng theo quy luật vận hành của âm dương thời tiết khí hậu. Còn trời vuông
đã có mái tăng che nên vẫn suốt bốn mùa nắng xanh. Hình ảnh nắng xanh
rất đẹp: Vừa nói được màu của lá rừng (hiện thực), lại vừa nói được màu của niềm tin, hy vọng (ước
mơ). Cách hiệp vần tròn/còn và sự lặp lại từ vuông hàm ý nhấn mạnh,
lại có nét riêng cho thấy sự tìm tòi của nhà thơ. Những câu thơ tiếp theo như
những định nghĩa các khái niệm mới nói về sự vận hành màu nhiệm của đời sống bên
trong tâm hồn:
“Mặt trời là trái tim anh
Mặt trăng vành vạnh là tình của
em
Thức là ngày, ngủ là đêm
Nghiêng nghiêng hai mái - hai miền
quê xa”
Một loạt cặp Âm-Dương: Mặt trời và
Mặt trăng; Anh và Em; Ngày và Đêm; Thức và Ngủ…đối lập, hài hòa, biện chứng, sóng
đôi. Câu thơ cuối như bay lên thanh thoát nhờ hai chữ nghiêng nghiêng lấp
láy, ảo mờ thao thức những miền quê xa ngái trong tâm tưởng. Nhà thơ đi tới khẳng
định:
“Ở đây là tấm lòng ta
Sông dài núi rộng cũng là ở đây”
Hai chữ ở đây được đặt ở đầu
và chốt lại cuối câu thơ lục bát xác định và nhấn mạnh tấm lòng rộng lớn mênh mông
của người chiến sĩ: Tấm lòng đối với đất nước, quê hương, cha mẹ, với người yêu
xa cách và những khát vọng ẩn kín trong
cõi riêng tư không dễ gì thấy được. Hai câu kết khép lại tứ thơ, cũng là một cách
khái quát của tác giả: “Vuông vuông chỉ một khoảng này/ Mà che tròn vẹn ngàn
ngày quân đi”. Sau này nhà thơ có chữa lại, thay chữ khoảng bằng chữ
chút - chút này có gì đáng kể đâu! Nhưng tôi tin cuộc trường chinh của dân
tộc “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” (Tố Hữu) sẽ khó khăn hơn rất nhiều nếu
không có những mái tăng - những khoảng trời tâm tư mơ mộng ấy. Giống như ai đó đã
từng nói: Cái Đẹp chính là cuộc sống! Chất liệu có khi chẳng có gì đáng
kể, nhưng nếu chịu khó tìm tòi khám phá, kết hợp với một cái vốn văn hóa nào đó,
vẫn có thể sáng tạo ra được những tứ thơ độc đáo chứ sao?
RÔ LAN PHƯƠNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI