INRASARA
NGUYỄN THỊ KIM HÒA TẢN VĂN
& SỰ SẮC SẢO CỦA TÌNH CẢM
Nguyễn
Thị Kim Hòa, con dân đất nắng Phan Rang - người viết văn “tỉnh lẻ”, nghĩa là cư
trú xa trung tâm văn hóa lớn, vừa xuất hiện đã tạo thành một hiện tượng “nhỏ”.
Mới và trẻ, 30 tuổi – Kim Hòa đoạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn
nghệ Quân đội (2013-2014); năm sau lần nữa: Giải nhất cuộc Vận động sáng tác
văn học thiếu nhi Việt Nam – Đan Mạch (2013-2015). Và Ninh Thuận vừa có thêm một
hội viên Hội Nhà văn Việt Nam :
2016!
Sau
thành công của truyện ngắn và truyện viết cho thiếu nhi, ta có thêm một Nguyễn
Thị Kim Hòa-tản văn, cũng độc đáo không kém.
1. Tôi muốn
đặt Nguyễn Thị Kim Hòa bên cạnh Phan Thị Vàng Anh, càng rất muốn đặt hai tập tản
văn của hai tác giả nữ này: Sa mạc & những vệt nhớ (NXB Văn hóa Văn
nghệ, TPHCM, 2016) bên cạnh Nhân trường hợp chị thỏ bông (NXB Hội Nhà văn,
2004) để làm cuộc so sánh, cho dù hai người viết có hai thế giới sống, khai thác
chất liệu và viết với hai phong cách rất khác nhau.
Nếu
Thảo Hảo [bút danh khác của Phan Thị Vàng Anh] sắc sảo đầy trí tuệ, thì Kim Hòa
lại khác: Sắc sảo cực kì tình cảm. “Sắc sảo tình cảm”, tôi nghĩ đó là cách dùng
từ khá sáng tạo của tôi.
Nếu ở tản văn của Thảo Hảo, “mỗi bài viết là một mảng hiện
thực qua con mắt săm soi của tác giả... với lối viết pha chút châm biếm, xót xa”
(nhận xét của evan.com.vn) khiến người đọc vừa thích thú vừa e sợ, sợ bởi
chúng như đang phơi bày chính mình ra, nơi khuất tối nhất của con người mình,
thì ở Kim Hòa: Sự nhân hậu của cái tình xâm chiếm lấy ta, đánh thức cái thiện tâm
ở trong mỗi con người chúng ta.
Hiện thực của Kim Hòa là hiện thực của những đời thường
xung quanh mình. Từ chuyện “nhà cũ”, “bấc về phố Phan” cho đến “mộc mạc bánh
canh”, “la cà cùng dông” và “lá xào dông” hay “Có nỗi nhớ mang tên… bánh tráng”.
Bấy nhiêu thôi, chẳng có chi to tát hay thời thượng, mà đã thành truyện, mà nên
văn, nên tình. Tình với thiên nhiên quê hương: Sông, núi, biển, nắng, vài đặc sản
quê nhà và cả những con người bình dị – dĩ nhiên.
Thế
nhưng, gây ấn tượng sâu đậm nhất, và có thể nói thành công nhất ở tản văn Kim Hòa
chính là cái tình người trong tương liên với đồ vật, sự vật xung quanh.
2. Vật dụng thuộc sở hữu của ta, chúng có đó xung quanh
ta, ngày qua ngày. Chúng là vật cận tay. Là đồ vật phục vụ ích dụng cuộc sống
thực tế của ta. Không là gì khác. Khi chúng thuộc về ta, ta dùng. Khi chúng chưa
thuộc về ta, ta thèm muốn chúng, ta tìm mọi cách chiếm được chúng, mang về, dùng.
Chiếm hữu để dùng. Dùng nhiều hơn nữa. Tận dụng tối đa công dụng của chúng. Rồi
thôi. Chúng chỉ là vật cận tay, và không là gì khác. Không là gì hơn. Vật dụng,
từ nhỏ bé, trơ lì, ít giá trị như cái ghế hay bình hoa đến cái to hơn, có giá
trị lớn hơn và có vẻ sinh động như vườn cây, ngôi nhà... ta quan tâm đến chúng,
khi chúng còn ích dụng. Ta chỉ quan tâm tới chúng, khi chúng còn làm cho ta mở
mặt mở mày với kẻ xung quanh. Ta đồng hóa ta với chúng. Chúng càng đắt thì giá
trị bản thân ta càng được đẩy lên cao. Từ “có” đến “là”, phân cách nhau mong
manh tơ trời. Là chúng, ta ôm khư khư chúng. Khư khư có khi quên luôn bản
thân ta như là con người. Nên đã xảy ra tình trạng ta không còn là gì
khi ta mất của. Mất của, ta từ bỏ luôn cuộc sống ta, như là một hữu
thể, như là. Sợ hãi không là gì cả đẩy con người đồng hóa mình vào
mọi loại dạng đối thể, lớn như quốc gia, tôn giáo hay ý hệ chính trị, nhỏ là bằng
cấp, chức vụ, của cải. Ta không còn là chính con người ta. Ta vẫn còn chưa học
cách tương liên với đối thể. Ta tự đặt ta vào hai cách chọn lựa: Hoặc ta đồng hóa,
hoặc ta làm xa lạ với chúng, thế thôi.
Trong cuộc sống thường nhật, ta ít
quan tâm đến sự vật, chưa học biết quan tâm đến sự vật có mặt quanh ta. Quan tâm
như là một ưu tư, săn sóc. Ta chỉ lo lắng bảo quản, sao cho sự vật lành lặn nhất
có thể, để chúng còn ích dụng lâu dài hơn. Xong, khi hết hạn sử dụng, ta bán làm
đồ lạp xon, hay ta vứt. Vứt và quên đi. Bởi ta đã có vật dụng khác thay thế, tốt
hơn, mới và tiện ích hơn.
Với Nguyễn Thị Kim Hòa thì khác.
Mối dây tương liên giữa con người và sự vật được thiết lập thoát khỏi đồng hóa
hay làm xa lạ. Vật dụng là những sự vật thân thuộc. Thân thuộc như chúng đang là,
đang hiện hữu. Chúng mang hồn vía và có cuộc sống riêng. Cái cây trong vườn cây
kia, nó có đời sống với thân phận riêng của nó. “Nhà cũ” chẳng hạn. Kim Hòa nhìn
“ba cây mãng cầu lớn kế mép tường lá xanh dày đan nhau trưa nắng phủ xuống mặt
sân cả một vòm xanh thẫm dìu dịu mát”. Tới “một con ong nhỏ rẽ bầy bướm,
nhẹ cất cánh bay lại xuống sân gạch, chỗ mấy bụi ớt vừa bật đám bông trắng tí
teo”. Tiếp đến là “một cây me non vừa đẩy bật một miếng gạch bể”, và
rồi “cỏ dại”, sau cùng là “cuộc hành quân lặng lẽ của nhà họ rêu”.
Phải thật thân thương với sự vật,
sự vật mới ban cho ta cái nhìn trìu mến và nâng niu ấy. “Nhà cũ” không hẳn là
nhà của mình, nhưng qua cái tình, nó như thuộc về mình. Thuộc về,
nên ưu tư – ưu tư theo nghĩa Sorge của Heidegger. Ưu tư về cái chơi vơi bất định
của thay đổi. Thực tế đã đổi thay, khi “người trồng cây trở về”, và cách tân nó,
làm mới nó. Để: “Nắng vẫn lấp lánh trên mái nhà, trên thềm xi măng sạch bóng.
Chỉ thoảng nhẹ trong gió, thứ gì như tiếng thở dài…”
3. Tiếng thở dài kia gần như đi suốt tập tản văn mỏng mảnh
của nhà văn nữ đất nắng này. Tuy nhiên chớ vì thế mà nghĩ Kim Hòa ủy mị hay, sến.
Tuyệt đối không.
Thở dài, khi con người lãng quên
sự vật xung quanh. Con người bị/ hay tự bật gốc khỏi quê nhà, miền đất ta đang
sống. Nghĩa là “vong thân”, đánh mất mình bởi những thứ cao viễn, xa vời hay mơ
hồ nào đó.
Như miền đất nắng như rang và gió
như phan[g] kia, lẽ ra những đứa con đất nắng ấy phải biết trân quý và nhớ cái đáng
nhớ nhất: Con sông, nhưng không.
Dường như sứ mạng chính của con
người trên mặt đất này là: Nhớ - Henri Miller đã nói thế. “Con người giờ trăm
ngàn thứ để nhớ. Nhớ lợi nhuận, cơ hội. Nhớ đấu đá, giành giật. Hơi sức nào đem
nhớ cho ba thứ xa xỉ như sông”.
Các nghệ sĩ Việt Nam thời
gian qua đã biết nhớ, biết gợi nhớ. Và làm nhiều cách để mọi người nhớ. Nhớ và
quan tâm đến sự vật cạnh ta, để sống như là sống. Lê Anh Hoài từng đánh
thức độc giả thủ đô về sự có mặt của cột điện qua tác phẩm nghệ thuật trình diễn
độc đáo: “Tôi là cột điện”. Cột điện ngoài phố bị bỏ quên, đã đành! Bức tranh bất
hủ được sao chép và treo trang trọng trên tường trong phòng sách của ta, ta hãnh
diện về nó, đi vào đi ra ta ngắm nó. Ngày thứ ba, thứ tư… cho đến ngày thứ bảy,
thứ mười, ta mỗi lúc mỗi nhạt dần rồi quên hẳn sự có mặt của nó. Chỉ khi nó có
sự cố: Bạn văn viếng nhà và ta cần có cái để khoe, hay thậm chí khi cái đinh găm
bị gỉ khiến nó bị lệch, ta mới… nhớ.
Không khác gì cái sông Dinh ở đất
nắng Phan Rang kia: “Chỉ mùa lụt lội, mưa bão , người ta mới giật mình chợt
nhớ đến sông”.
Buồn không?!
4. Nguyễn Thị Kim Hòa cứ buồn kiểu đó.
Và dẫn dắt chúng ta cùng buồn với mình. Cái buồn đâm rễ sâu thẳm vào sự vong thân
[hay nỗi thiếu vắng quê hương] của con người trên mặt đất. Về những cái hẫng của
sống, thực và hư của nỗi đời, còn và mất của cuộc người.
Thế nên không thể nói Kim Hòa hời
hợt, khi nhà văn trẻ này không tận dụng sự hiểu biết về mảnh đất nuôi sống mình
để đào sâu hơn cái thế giới văn hóa đậm dày kia. Như một Võ Phiến đã, qua những
tản văn [cùng tùy bút] đẫm chất trí tuệ của ông.
Ví như con sông ta vừa nhắc đến:
Sông Dinh: “một cái tên rất dễ đụng hàng”. Bởi chỉ cần nhấp chuột, đã xuất hiện
đến non chục sông Dinh trước mặt: Quảng Bình, Phú Yên, Ninh Hòa, Bà Rịa…
Buồn không!
Không, đó chính là các vùng đất có
dấu chân người Cham đi qua: Dân tộc này ra đi, ngôn ngữ ở lại. Dil, tiếng
Cham là “vịnh, biển”, còn Ding là “phố”. Ở đâu có phố, ở đó có chợ và sông,
mà phải là sông cái. Phan Rang cũng không khác.
Hay thứ hoa bồn bồn [hay bìm bìm]
đầy thân phận lạc về xứ Phan Rang mà Kim Hòa phong làm “đế vương miền sa mạc” cũng
vậy. Đó là cây hrak trong tiếng Cham, loài hoa đã từng đi vào trường ca Ariya
Cham Bini bất hủ. Ở đó, cô gái Cham nhớ chàng trai Bà-ni, đã hái lá hrak
vẽ hình người yêu, gửi cho chàng.
Su-on lo oh thuw khing ngap
Kuw tak phun hrak ngap thaik
paywa
(Nhớ quá chẳng biết làm gì/ Ta cắt
lá bìm bìm vẽ hình gửi cho).
Dù gì đi nữa, loài hoa dại bình
thường và vô dụng kia cũng sắp tuyệt chủng.
“Với sự biến mất của bồn bồn,
em trai may mắn đã đem nó trở về. Còn bao nhiêu sự biến mất khác?”
Một câu hỏi lành, nhưng đầy ưu tư
sâu thẳm. Về một loài hoa, về ngôi nhà cũ, về sinh phận con người trên mặt đất,
và cả định mệnh của mặt đất giữa vô cũng vũ trụ này…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI