Sổ tay thơ
THẤY TRĂNG LIỀM Ở PHỐ
Không vừng không lúa trên cao
Thiên đình dùng để gặt sao xâu cườm?
*
Trăng liềm như tỏa mùi thơm
Tôi nghe thoang thoảng rạ rơm một thời
Tôi nghe tiếng Mẹ tôi cười
"Mùa này mới thực vàng mười đó con"
Rồi liềm theo tiếng cười giòn
Ra đồng cùng mẹ sắt son tháng ngày
Chiếc liềm vẫn ở trên tay của Người
Gặt xong liềm vẫn không rời:
Cỏ non vỗ chú bê còi mượt lông
Cỏ già che gió mùa đông
Sim mua nuôi bếp lửa hồng reo vui...
Nhớ năm bão lũ dập vùi
Mẹ đau nằm võng ngậm ngùi thở than
Liềm nằm trên vách rỉ han
Hai con mắt mẹ lệ tràn đẫm mi!
*
Phố phường bao nỗi níu trì
Mải lo quên tiếng thầm thì mẹ xưa
"Dẫu đời sớm nắng chiều mưa
Mỗi năm hai vụ chiêm, mùa phải chăm"
*
Hái, liềm giờ đã xa xăm
Xa mùi rơm rạ, dạ trăm nỗi niềm
Đêm nay chợt thấy trăng liềm
Quắt quay lòng nhớ mẹ hiền ngày xưa!
Đặng
Bá Tiến
LỜI BÌNH:
QUẮT
QUAY LÒNG NHỚ MẸ HIỀN NGÀY XƯA!
Viết nội dung, đề tài gì cốt do ở
nhà thơ. Thơ cũng bất luận hình thức, càng đa dạng, phong phú càng thêm khơi gợi
và mở rộng chiều hướng tiếp nhận trên bình diện nghệ thuật. Vấn đề quan trọng là
thơ phải đọng, dù ít dù nhiều, một chữ, một câu, một hình ảnh, một tứ thơ độc đáo...
tất cả đều làm nên giá trị thẩm mĩ, tạo sức hút và ám ảnh cho người đọc. Thấy
trăng liềm ở phố của nhà thơ Đặng Bá Tiến có kiểu lập tứ rất hay, kiểu Cỏ
may trên sân thượng của Nguyễn Trọng Tạo, Sim trên hè phố của Nguyễn
Thanh Mừng và nhiều bài thơ khác nữa. Ở thi phẩm này, từ hình ảnh ánh trăng lưỡi
liềm giữa bầu trời quang đãng, Đặng Bá Tiến giật mình nhớ đến chiếc lưỡi liềm mà
suốt một đời gắn với người mẹ nghèo truân chuyên, vất vả. Từ đó, tứ thơ đi liền
một mạch, xuyên suốt đến cuối bài, khi niềm vui chất ngất dâng cao, lúc tỉ tê
trầm tư lắng vọng, để rồi cuối cùng giật mình "quắt quay lòng nhớ mẹ hiền
ngày xưa" trong nỗi thảng thốt nghẹn lời trước vầng trăng lưỡi liềm giữa bầu
trời cao xa, xanh biếc.
Về thể thơ lục bát, đây chưa hẳn
là thế mạnh của nhà thơ Đặng Bá Tiến. Anh viết nhiều thể thức khác nhau: khi tự
do; lúc năm, sáu, bảy chữ... tùy hứng. Nhưng đọc Thấy trăng liềm ở phố,
quả đã có sự hòa phối tuyệt vời giữa nội dung và hình thức biểu đạt. Bởi lẽ, viết
về mẹ, lục bát vẫn đằm thắm nhất, dường như ta nghe được lời ru dịu dàng từ làn
điệu dân ca mà mẹ hát ngày nào: "vai gánh đàn con/ vai quảy dặm, vè"
(Mẹ quê - Đặng Bá Tiến). Chính nhờ sự bật thốt tự nhiên bằng thể lục bát
ấy, tác giả chộp ngay theo kiểu hứng ở hai câu thơ đầu, mang tính mộc mạc ví
von của ca dao, câu đố dân gian kỳ thú:
Không vừng, không lúa trên cao
Thiên đình dùng để gặt sao xâu cườm?
Từ ánh trăng lưỡi liềm nơi thị thành
phố xá, tác giả bất chợt hoài niệm về một vùng quê tít tắp tuổi thơ: "Tôi
nghe thoang thoảng rạ rơm một thời". Sức mạnh của nghệ thuật, của hồn
thơ thi sĩ mới kỳ diệu làm sao, nhờ đó hình ảnh người mẹ ngày nào hiện lên thật
sinh động, đầy ám ảnh. Tiếng cười và lời nói của mẹ cứ như hiện ra trước mắt,
thân thương và xúc động: "Tôi nghe tiếng mẹ tôi cười/ "mùa này mới
thực vàng mười đó con". Quả thật, lời thơ thì vẫn đậm chất kể, nhưng sức
nặng của cảm xúc lại ẩn chứa lớn lao. Phải nhớ mẹ đến cháy bào tâm thức mới có
thể dựng lên chân dung người mẹ thông qua những nét giản đơn, chấm phá mà đầy
ma lực ấy. Niềm vui của mẹ mới chân chất làm sao, tiếng cười của mẹ mới vui tươi
làm sao! Chi tiết hơn, hình tượng người mẹ được tác giả tái hiện qua một không
gian cụ thể khác khi chiếc liềm theo mẹ ra đồng. Đến đây, người mẹ chân lấm tay
bùn mới hiện lên thật đẹp đẽ qua rất nhiều công việc đồng áng mỗi ngày. Mẹ làm
không nghỉ, quần quật hết việc này đến việc khác:
Rồi liềm theo tiếng cười giòn
Ra đồng cùng mẹ sắt son tháng ngày
Chiếc liềm vẫn ở trên tay của Người
Gặt xong liềm vẫn không rời:
Cỏ non vỗ chú bê còi mượt lông
Cỏ già che gió mùa đông
Sim mua nuôi bếp lửa hồng reo
vui...
Giọng thơ đang hứng khởi, reo vui
như bếp lửa hồng từ sim mua của mẹ qua tám dòng lục bát kết nối nhau trong một
khổ thơ, bất giác thắt lại ngậm ngùi khi mùa bão lũ dập vùi đi qua làng quê nghèo
khó. Tất cả công lao cấy cày, gặt hái của mẹ giờ thành mây khói hết, chiếc liềm
như người bạn tri âm cũng nằm trên vách rỉ han buồn thương cho đời mẹ tảo tần.
Từ chiếc liềm trên trời cao lãng mạn gặt hái muôn sao, giờ thành chiếc liềm của
đời mẹ gian lao cơ cực. Xa xót đến thắt lòng, tác giả như bừng tỉnh giữa cơn mê
thành thị để rồi giật mình nhớ lời mẹ dặn năm xưa: "Dẫu đời sớm nắng
chiều mưa/ mỗi năm hai vụ chiêm, mùa phải chăm".
Khổ thơ kết bài là một hiện thực đắng
chát, xa xót trước phận người nếm trải. Điệp từ "xa" được nhắc lại
hai lần như một lời khẳng định về nỗi mất mát không gì bù đắp được. Làng quê cũ
đã xa, mùi rơm rạ đã xa; đau đớn hơn, theo thời gian bóng mẹ bây giờ cũng ngàn
thu hun hút, duy chỉ có ánh trăng lưỡi liềm vẫn treo giữa bát ngát cao xanh như
một nỗi u hoài ngưng đọng không thôi:
Hái, liềm giờ đã xa xăm
Xa mùi rơm rạ, dạ trăm nỗi niềm
Đêm nay chợt thấy trăng liềm
Quắt quay lòng nhớ mẹ hiền ngày xưa!
Thấy trăng liềm ở phố của tác giả trường ca Rừng cổ tích hấp đẫn người đọc
nhờ vào tứ thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng; lời thơ giản dị, trong sáng mà cảm xúc thật
dư ba nỗi niềm thương nhớ mẹ. Ân tình đậm sâu về mẹ, về quê hương bản quán là mạch
nguồn sâu thẳm chảy mãi không nguôi trong thơ Đặng Bá Tiến, nó chưng cất thành
lẽ sống, niềm tin yêu của tác giả giữa cuộc đời này. Nhờ đó, thi phẩm tìm được
sự đồng điệu ở tấm lòng độc giả bởi tính phổ quát của ân tình mẫu tử thiêng liêng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI