BẢN LĨNH VÀ TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC
CỦA TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN
Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn một nhà lãnh đạo
lỗi lạc, nhà chiến lược chính trị, quân sự có tầm cỡ, “là nhân vật mang tầm vóc
lịch sử hiện đại, chỉ xếp sau Hồ Chí Minh” (nhà báo Trần Bạch Đằng), được toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân khâm phục và trân trọng. Riêng đối với nhân dân, cán bộ và chiến sĩ Nam bộ gọi đồng chí Lê Duẩn là
"Ngọn đèn 200 nến", là “người của Cụ Hồ trong Nam” và còn gọi cái tên
là Anh Ba. Trong những năm đất
nước chuyển mình đổi mới, phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường xã
hội chủ nghĩa với tầm nhìn xa, anh Ba Lê Duẩn đã lát những viên gạch đầu
tiên trên con đường đổi mới, để đến hôm nay sau hơn 30 năm đổi mới đất nước đã đạt
được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đồng chí Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 7 tháng
4 năm 1907, tại làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị, trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước.
Là người sớm giác ngộ tinh thần cách mạng, đồng chí Lê Duẩn
gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên. Năm 1930, đồng chí trở thành một
trong những đảng viên lớp đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng
lập.
Năm 1931, đồng chí là Ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc kỳ.
Tháng 4 năm đó, đồng chí bị địch bắt và kết án 20 tù cầm cố, lần lượt bị giam ở
các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La và Côn Đảo.
Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận Bình Dân ở ở Pháp và phong trào đấu tranh của
nhân dân ta, chính quyền thực dân buộc phải trả tự do cho nhiều chiến sĩ Cộng sản
trong đó có đồng chí Lê Duẩn. Từ Côn Đảo trở về, bất chấp sự đe dọa, quản thúc
của kẻ thù và sức khỏe giảm sút, đồng chí đã trực
tiếp chỉ đạo phong trào ở quê nhà Quảng Trị. Đồng chí nhiều lần đến cơ sở nhà đồng
chí Hồ Tần, Lê Quang Soạn và miếu An Mỹ (miếu An Mỹ nay thuộc làng An Mỹ, xã Cam Tuyền,
huyện Cam Lộ ) để họp với các đồng chí
cán bộ đảng viên chủ chốt, phổ biến các nghị quyết của Trung ương Đảng, Nghị
quyết Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Trong thời kỳ này đồng chí cũng đã lặn lội
khắp các tỉnh miền Trung để xây dựng lại các đảng bộ bị tan rã do đế quốc đàn áp,
khủng bố, khôi phục Xứ uỷ Trung kỳ.
Năm 1937, đồng chí được bầu giữ chức Bí thư Xứ uỷ Trung kỳ.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ VI (11-1939), đồng chí Lê Duẩn đã sát cánh bên
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, tham gia soạn thảo “Chính sách mới của Đảng”, quyết định
thành lập “Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương” thay cho “Mặt trận Dân
chủ”, chuyển hướng cuộc đấu tranh cách mạng sang một thời kỳ mới, là thời kỳ giương
cao ngọn cờ “giải phóng dân tộc, lấy lợi ích dân tộc làm tối cao, tất cả mọi
vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa, cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy
mà giải quyết”. Nhờ vậy, chỉ trong thời gian ngắn, một làn sóng cách mạng
phản đế đã dấy lên, tiêu biểu là ba cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương,
làm rung động bộ máy thực dân.
Bị thực dân Pháp bắt và đầy ra Côn Đảo lần thứ hai
(1940-1945), cùng với các chiến sĩ Cộng sản khác, đồng chí Lê Duẩn một lần nữa
lại tỏ rõ bản lĩnh và phẩm chất cách mạng của mình, vượt qua thử thách, một lòng
kiên trung với Đảng, với dân tộc.
Sau cách mạng Tháng Tám thành công từ năm 1946 đến năm 1954, với cương vị Bí thư Xứ ủy, rồi
Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí lãnh đạo Đảng bộ miền Nam tổ chức cuộc
kháng chiến ở Nam bộ, góp phần vào thắng lợi của dân tộc ta trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, đồng chí
Lê Duẩn đã khởi thảo bản Đề cương Cách mạng miền Nam, chỉ ra phương hướng và những
bước đi cơ bản của cách mạng miền Nam, đóng góp to lớn vào Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng về cách mạng miền Nam. Với tư duy chiến lược vượt trội của “ngọn đèn 200 nến”, đồng chí đã sớm đi
tới chân lý: “Nhân dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường
là vùng lên chống Mỹ - Diệm, để cứu nước và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng.
Ngoài con đường đó, không còn con đường nào khác”(2). Trong bối cảnh
cực kỳ khó khăn của cách mạng miền Nam lúc bầy giờ, “Đề cương” đã dấy
lên niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng trong đông đảo cán
bộ, đảng viên.
Giữa 7.1956, đồng
chí Lê Duẩn được Trung ương điều ra công tác bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh để
chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ III. Trong phiên họp đặc biệt của Bộ Chính trị,
ngày 07.10.1957, đồng chí được cử làm Quyền Tổng Bí thư. Trong thời điểm này, cùng
với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Tổng
Bí thư đã góp phần vào quá trình chuẩn bị và tổ chức Hội nghị Trung ương
15, khoá II. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 được thông qua tại Đại hội III của
Đảng, hoàn chỉnh thành chiến lược cách mạng cho nhân dân miền Nam đánh Mỹ và thắng
Mỹ. Dưới ánh sáng của Nghị quyết này, các cuộc đấu tranh chính trị có vũ trang
hỗ trợ một số địa phương miền Nam
lập tức bùng lên thành phong trào Đồng khởi mùa Xuân năm 1960. Đồng khởi đã đưa cách mạng miền Nam
Việt Nam từ thế giữ gìn lực
lượng chuyển hẳn sang tiến công, đẩy chế độ Sài Gòn bước vào một thời kỳ khủng
hoảng nặng nề, triền miên, buộc Mỹ phải tự giới hạn phản ứng trong phạm vi miền
Nam .
Sau Đồng khởi, cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới, từ khởi
nghĩa vũ trang, phát triển thành chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng.
Trong quá trình đó, cùng tập thể Bộ Chính trị, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã có những cống
hiến xuất sắc trong việc quán triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân trên cả hai miền đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ, tạo điều
kiện quyết định để đi tới hạ quyết tâm hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước mùa Xuân năm 1975. Để có được mùa Xuân toàn thắng đó, toàn dân tộc đã
phải trải qua chặng đường dài chiến đấu với biết bao thử thách, hy sinh mà Xuân Mậu Thân 1968 là cột mốc lớn, ghi dấu bước
ngoặt lớn của cuộc chiến tranh. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ đã chứng tỏ tầm nhìn
chiến lược của Tổng Bí thư Lê Duẩn. Đây là
một phẩm chất vô cùng quý báu của những nhà hoạch định chiến lược của Đảng
ta.
Sau khi đất nước thống nhất, cả nước tiến hành xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ
Chính trị đã tập tập trung nhiều công sức vào việc hoạch định đường lối xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Ước mơ cháy bỏng của Tổng Bí thư là xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam ,
nhân dân Việt Nam
có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Tại Đại hội lần thứ IV (1976) và Đại hội V (1982)
của Đảng cũng như tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, Tổng
Bí thư Lê Duẩn có những đóng góp vô cùng quan trọng đối với việc hoạch định đường
lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong những điều kiện khác nhau, cả
thời điểm thuận lợi cũng như lúc gặp khó khăn, cả khi gặp những vấn đề lý luận
và thực tiễn sáng tỏ cũng như khi những tư tưởng, quan điểm đang trong qua trình
tìm tòi, Tổng Bí thư luôn luôn đào sâu suy nghĩ, kiên trì nghiên cứu và thử
nghiệm, một lòng trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, với chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Điều mà đồng chí luôn luôn tâm niệm và kiên trì phấn đấu là “Tất cả vì Tổ quốc
vì xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc nhân dân”.
Với 79 tuổi đời, gần 60 năm hoạt động
cách mạng, 26 năm liên tục trên cương vị Bí thư thứ Nhất và Tổng Bí thư của Đảng
ta, đồng chí Lê Duẩn đã thể hiện
rõ là một nhà lý luận có tầm cỡ chiến lược của cách mạng Việt Nam với một tư
duy sáng tạo lớn, đã có những cống hiến xuất sắc về nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn. Đánh giá công lao và tài năng của đồng chí Lê Duẩn, Đảng ta khẳng định: “Là một nhà mác-xít - lê-nin-nít chân chính, đồng chí
Lê Duẩn luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi, xuất phát từ tình hình thực tế, phân tích,
giải quyết những vấn đề mới do cuộc sống đề ra. Sự sáng suốt của đồng chí thể
hiện nổi bật trước những bước ngoặt của lịch sử và những tình huống phức tạp”.
Sinh thời, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn tâm niệm,
thực tiễn cách mạng luôn là điểm xuất phát, con người và đạo lý dân tộc là điểm
tựa cho việc suy nghĩ, tìm tòi theo phương pháp luận biện chứng của học thuyết
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để lý giải tình
hình, xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng cũng như giải quyết những vấn đề mới, cụ
thể của cuộc sống đặt ra. Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng những bài học về lý luận
và thực tiễn quý báu mà cố Tổng Bí thư
Lê Duẩn để lại cho chúng ta vẫn còn nguyên
giá trị, đặc biệt là vào thời điểm toàn Đảng ta đang nỗ lực thực hiện nhiệm vụ
trọng tâm là phát triển kinh tế và nhiệm vụ then chốt là chỉnh đốn, xây dựng Đảng
nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI