Có một điều hết sức thú vị là:
lịch sử, con người hai dân tộc Việt – Nga dẫu ở xa nhau vạn dặm, vẫn có những
điểm tương đồng, giống nhau đến không ngờ. Xin nêu một số luận cứ nhằm làm sáng
tỏ nhận định trên nay.
Trong lịch sử thế giới cận đại và
hiện đại, không có một dân tộc nào làm nên những kỳ tích lừng lẫy trong công
cuộc chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước như hai dân tộc Nga - Việt.
1- Cặp bài trùng của những
biến cố lịch sử có tầm ảnh hưởng lớn đến
lịch sử nhân loại:
Năm 1812, dân tộc Nga đánh bại
cuộc xâm lăng của Na-pô-lê-ông, người đã làm mưa làm gió khắp châu Âu. Ngày 23
tháng 6 năm 1812, 60 vạn quân Pháp vượt sông Nê-man , tiến vào Lit-thua-ni do
Nga trực tiếp kiểm soát và tiến về phương Đông giá lạnh. Thống soái Nga
Cu-tu-dốp tiến hành chiến thuật vườn không, nhà trống và tổ chức đánh chặn
đường tiếp tế lương thực của quân Pháp, nên quân Pháp lúc tới Mat-xcơ-va đã lâm
vào cảnh đói kém, kiệt sức, không còn sức chống trả khi quân Nga phản công. Đến
trung tuần tháng 12 năm 1812, khi rút lui khỏi Nga, 60 vạn quân Pháp chỉ còn 2
vạn, đói khát, thương tật vật vờ (1).
Năm 1945, một lần nữa dân tộc Nga
ngoan cường chiến đấu, tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Hít-le, bảo vệ tổ quốc và
giải phóng nhiều nước châu Âu. Rất nhiều chiến dịch lớn diễn ra. Đặc biệt,
chiến dịch tổng công kích cuối cùng vào Béc-Lin, từ ngày 16 tháng 4 đến tháng 8
năm 1945, đã buộc phát xít Đức ký đầu hàng vô điều kiện. Đức quốc xã thất bại
thảm hại: 720.000 lính bị chết, 480.000 bị bắt. Hồng quân thu 1.500 xe tăng,
5.000 pháo, 4500 máy bay, giải phóng Béc-Lin và vùng phụ cận (2).
Còn ở Việt Nam, thế giới đã chứng
kiến dân tộc Việt đã “đánh thắng hai đế quốc to” (lời Hồ chủ tịch) một cách vẻ
vang. Rất nhiều chiến dịch, nhưng nổi
trội hơn cả là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và chiến dịch Hồ Chí Minh năm
1975. Chiến dịch Điện Biên diễn ra từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 năm
1954, ta đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm của Pháp, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3
tiểu đoàn pháo binh, diệt và bắt sống hơn 16.000 tên (3); chiến dịch Hồ Chí Minh từ ngày 20 tháng 4 đến ngày 30 tháng
4 năm 1975, ta tiêu diệt quân đoàn 3 ngụy, làm tan rã quân đoàn 4, giải phóng
thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, là đòn quyết định để “ngụy nhào”, kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ (4).
2- Ngay cả giờ phút ngặt nghèo
nhất của vận mệnh đất nước, hai dân tộc vẫn chứng tỏ là cặp bài trùng lịch sử:
Sau khi chiến hạm Rạng Đông nã
đại bác vào cung điện Mùa Đông của Nga Hoàng, lúc 9 giờ 40 phút, ngày
7.11.1917, thì tại Điện Smô-nưi, Đại hội đại biểu toàn Nga thông qua Sắc lệnh
hòa bình do Lê-nin soạn thảo. Sắc lệnh đề nghị các nước tham gia thế chiến thứ
nhất lập tức thực hiện một nền hòa bình không chia cắt đất, không bồi thường.
Anh và Pháp đã cự tuyệt đề nghị này .
Trước tình hình này, Lê-nin và
Đảng Bôn-sê-vích quyết định lợi dụng mâu thuẫn giữa các đế quốc, tiến hành đàm
phán hòa bình riêng với Đức. Nước Đức đầy tham vọng, đưa ra yêu cầu vô cùng
khắc nghiệt: Nga phải cắt nhượng 15 vạn ki-lô-mét vuông lãnh thổ, và phải bồi
thường cho Đức 3 tỷ rúp.
Lê-nin phân tích, ký một hòa ước
như vậy là quá nhục nhã với nước Nga, nhưng nước Nga phải ký. Người chỉ rõ bất
cứ sự lựa chọn nào khác có nghĩa là tuyên án tử hình chính quyền Xô Viết. Đấu
tranh trong nội bộ Đảng rất quyết liệt, dai dẳng. Đến khi Đức gửi tối hậu thư
yêu cầu Nga ký hòa ước và ra điều kiện khắc nghiệt hơn: tăng mức bồi thường cho
Đức lên 6 tỷ rúp – Lê-nin kiên trì đấu tranh thuyết phục, rằng ký hòa ước là
một bước lùi cần thiết để cứu nước Nga. Đến lần bỏ phiếu thứ 3, Ban Chấp hành
thông qua đề án của Lê-nin, với phe đa số chỉ hơn một phiếu, hòa ước được ký.
Đến ngày 11.11.1918 Đức đầu hàng
Anh, Pháp, chiến tranh kết thúc. Chính phủ Xô Viết tuyên bố hủy bỏ hiệp ước bất
bình đẳng với Đức. Đó là Hiệp ước Brét-Li-tốp (5).
Như vậy, nhờ Hiệp ước
Brét-Li-tốp, chính quyền Xô Viết non trẻ được bảo vệ, nước Nga kiệt quệ sau
chiến tranh được phục hồi…
Tại Việt
Nam, năm 1946, vận nước ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Ngày 28.12.1946, Hiệp ước
Hoa – Pháp được kí. Theo đó, Pháp thay 20 vạn quân Tưởng ở Việt Nam để giải
giáp quân Nhật. Cũng vào đầu năm 1946, Pháp chiếm được các đô thị, hạ tầng giao
thông ở Nam và Trung bộ, chiếm Campuchia, khống chế Lào. Anh và Mỹ thỏa thuận
quân Anh rút khỏi Nam Đông Dương, nhường cho Pháp chiếm đóng từ vĩ tuyến 16 trở
vào.
Trước tình thế này, ngày
3.3.1946, Đảng ra chỉ thị về tình hình và chủ trương mới. Vào lúc này, nếu đánh
Pháp, ta vô cùng bất lợi: nếu nhân nhượng và hòa hoãn với Pháp, ta cũng gặp vô
vàn khó khăn.
Sau khi cân nhắc, ngày 6.3.1946,
Đảng đưa ra chủ trương hòa để tiến. Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hồ Chủ tịch kí với
Pháp Hiệp định sơ bộ. Theo đó, Pháp công
nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do trong khối Liên hiệp
Pháp; Việt Nam cho 15.000 quân Pháp vào thay thế quân Tưởng tại miền Bắc. Thực
tế là, nếu ta không nhân nhượng thì quân Pháp vẫn vào miền Bắc và quân Tưởng vẫn
còn đến 20 vạn quân cùng với bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách đang hết sức hung
hãn.
Nhờ Hiệp định sơ bộ, Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ được bảo vệ, đuổi sạch 20 vạn quân Tưởng, cả
nước có điều kiện chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến sau này (6).
Việc Lê-nin kí Hiệp ước
Brét-Li-tốp năm 1918 với việc Hồ chủ tịch kí Hiệp định sơ bộ năm 1946, rõ ràng
là giống nhau ở chỗ chính quyền cách mạng của hai nước đều trong thế rất mong
manh, nhờ việc kí mà bảo vệ được chính quyền và tạo điều kiện củng cố lực
lượng. Đó là sự tương đồng tư duy của các bậc thiên tài.
Chúng ta vui sướng bởi nhờ có
Đảng lãnh đạo, dân tộc Việt Nam không tiếc máu xương, nước mắt và mồ hôi để tạo
dựng nên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Soi chiếu năm châu bằng cái
nhìn hết sức cầu thị, khách quan, ta càng tự hào hơn khi nhận thấy và khẳng
định một hiện thực lịch sử: Hai dân tộc Việt – Nga là cặp bài trùng lịch sử, có
một không hai.
Ngày hôm nay, ở nước Nga – Xô
Viết, nay là liên bang Nga, lịch sử có bước thăng trầm, dẫu vậy, những giá trị
tốt đẹp bất biến của nó vẫn luôn là ước mơ của các dân tộc, và tình cảm về mối
quan hệ hữu nghị truyền thống của dân tộc Việt Nam với dân tộc Nga luôn được
phát triển lên tầm cao mới.
(1) Thế giới 5000 năm, NXB Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội.
(2,3,4,5) Những nền văn minh thế
giới , NXB Văn hóa – Thông tin – Hà Nội.
(6) Lịch sử Việt Nam từ thời dựng
nước đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh – NXB Chính trị, Hành chính, Hà Nội
, 2013.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
NHẬN XÉT MỚI